Thúc đẩy ứng dụng thuốc BVTV sinh học bền vững tại Việt Nam

Google News

Lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trung bình trên cả nước giảm dần, trong đó, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học có xu hướng tăng, từ 16,67% năm 2020 lên 18,49% năm 2022.

Thuc day ung dung thuoc BVTV sinh hoc ben vung tai Viet Nam
Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt thông tin về kết quả triển khai Chương trình “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học giai đoạn 2021 - 2025”. 
Sáng 2/11, Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp & PTNT) vừa tổ chức hội nghị về “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học” dưới sự Chủ trì của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT Hoàng Trung. Hội nghị nhằm đánh giá các kết quả thực hiện bước đầu, nhìn nhận trực diện những khó khăn, thách thức và thảo luận chiến lược và cách thức triển khai cụ thể để thúc đẩy thuốc BVTV sinh học trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Hoàng Trung cho biết, tính đến tháng 10/2023, riêng kim ngạch xuất khẩu của ngành trồng trọt là khoảng 22 tỷ USD đóng góp gần 50% toàn ngành. Bên cạnh việc đảm bảo kiểm soát sâu bệnh và dịch hại, nhiệm vụ trọng tâm của ngành trồng trọt đó là hỗ trợ các chủ trương của ngành nông nghiệp trong việc phát triển ngành bền vững, xanh và chất lượng cao. Do đó định hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV là rất quan trọng và đã được đề cập trong các đề án của ngành nông nghiệp, trong đó ưu tiên phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Trong danh mục thuốc BVTV hiện nay, thuốc sinh học hiện chiếm 19% và khối lượng sử dụng tăng dần theo thời gian; lợi ích từ sử dụng thuốc sinh học rất rõ. Đây là tiền đề để thực hiện hiệu quả việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong thời gian tới.
Tại hội nghị, Hiệp hội CropLife Châu Á và CropLife Việt Nam đã chia sẻ về xu hướng nghiên cứu, phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học trên thế giới cũng như một số đề xuất để thúc đẩy ứng dụng tại các nước có mô hình canh tác quy mô nhỏ, trong đó có Việt Nam
Theo chia sẻ của tổ chức CropLife Châu Á, trên quy mô toàn cầu, ngoài hơn 600 hoạt chất BVTV tổng hợp, hiện có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Bắc Mỹ hiện tại là đang là khu vực có tỷ lệ ứng dụng thuốc BVTV sinh học cao nhất. Về mức độ sử dụng phổ biến, thuốc trừ sâu sinh học đang chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong các loại thuốc BVTV sinh học và thuốc hoá học có nguồn gốc tự nhiên chiếm 1/3 thị trường thuốc BVTV sinh học. Trong giai đoạn 2005 – 2025; mức độ tăng trưởng thị trường thuốc BVTV sinh học bình quân hàng năm là 10% trong khi tỷ lệ này của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm.
Tổ chức CropLife Châu Á cũng nhấn mạnh vai trò của thuốc BVTV sinh học khi đây được xem là một trong những công cụ hữu hiệu trong chương trình IPM khi kết hợp cùng với các sản phẩm hóa chất nông nghiệp khác, biện pháp canh tác, quản lý thời tiết và các yêu tố đầu vào… để đảm bảo năng suất và chất lượng tối ưu trong việc phòng trừ dịch hại.
Thuốc BVTV sinh học đặc biệt hữu hiệu tại những thời điểm như đầu mùa vụ, khi áp lực sâu bệnh thấp và tại cuối vụ khi nhu cầu về kiểm soát dư lượng và PHI cần được ưu tiên. Hạn chế phát triển tính kháng cũng là một ưu điểm và đóng góp nổi bật của thuốc BVTV sinh học.
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Sơn, chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam (VIPA) đã chia sẻ một số khó khăn hạn chế trong việc ứng dụng thuốc BVTV sinh học trong điều kiện canh tác quy mô nhỏ tại Việt Nam như hiệu lực sinh học thấp, giá thành cao và ít lựa chọn. Ông cho rằng thuốc BVTV sinh học chưa thể thay thế hoàn toàn thuốc BVTV hoá học trong giai đoạn hiện nay.
Thuc day ung dung thuoc BVTV sinh hoc ben vung tai Viet Nam-Hinh-2
Tiến sỹ Tony Alfonso - Chủ tịch Tổ công tác về Thuốc BVTV Sinh học – CropLife Châu Á chia sẻ tại hội thảo. 
Tiến sỹ Tony Alfonso - Chủ tịch Tổ công tác về Thuốc BVTV Sinh học – CropLife Châu Á cho rằng thuốc BVTV sinh học mang lại các cơ hội và lợi ích nổi bật, nhưng không nên được xem như biện pháp thay thế cho thuốc BVTV hoá học. Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc triển khai hệ thống pháp lý có tính dự báo và phù hợp đối với thuốc BVTV sinh học để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả nhất quán của sản phẩm mà không làm hạn chế việc giới thiệu và thương mại thuốc BVTV sinh học trên thị trường, trong đó cần có những hướng dẫn đăng ký và quản lý riêng đối với thuốc BVTV và cơ chế kiểm soát chất lượng chặt chẽ.
Kinh nghiệm quản lý và ứng dụng thuốc BVTV sinh học tại nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy áp dụng cách tiếp cận linh hoạt để đăng ký thuốc BVTV sinh học dựa vào đánh giá khoa học và điều kiện thực tiễn sẽ giúp đi tắt đón đầu trong việc ứng dụng các loại thuốc BVTV sinh học mới, đồng thời duy trì tính nhất quán với những khuôn khổ pháp lý về thuốc BVTV sinh học đã có.
Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Hội làm vườn cho rằng cần đổi mới công tác quản lý thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam bao gồm cập nhật, cụ thể hoá khái niệm thuốc BVTV; bổ sung quy định đối với sản phẩm sinh học mới; đơn giản hoá, loại bỏ một số thủ tục và yêu cầu về số liệu thử nghiệm đối với thuốc BVTV sinh học và đưa ra hướng dẫn về trường hợp thuốc BVTV sinh học được đăng ký đặc cách…
PV