1. Cuộc xâm lược Canada
Mở đầu cuộc chiến tranh năm 1812, quân đội
Mỹ đã xâm chiếm Thượng và Hạ Canada. Các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự đều mong đợi một sự đầu hàng nhanh chóng. Tuy nhiên, Mỹ đã đánh giá cao sức mạnh quân sự của phía mình mà đánh giá thấp đối phương. Thay vì giành chiến thắng một cách dễ dàng, Mỹ đã bị Anh dạy cho một bài học và phải nếm mùi cay đắng, nhận thất bại nặng nề.
Lực lượng Mỹ (chủ yếu là dân quân mới được "chiêu mộ") chuẩn bị xâm lược Canada trên 3 hướng nhưng không tấn công cùng một lúc và không thể hỗ trợ lẫn nhau. Quân đội Mỹ lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu chống lại một đội quân chuyên nghiệp và họ thiếu lực lượng hậu cần. Chính những điều này khiến Mỹ bị hạn chế khả năng tập trung lực lượng chống lại những điểm yếu quân sự của Anh. Thêm vào đó, Mỹ cũng thiếu những kế hoạch dự phòng tốt để đảo ngược tình thế khi mà người Anh đã sớm có dự tính trước. Các chỉ huy quân đội Mỹ William Hull cũng không mấy nhiệt tình với cuộc chiến hay sẵn sàng chấp nhận rủi ro để đạt được lợi thế.
Thảm họa thực sự của chiến dịch xâm lược Canada của Mỹ trở nên rõ ràng hơn ở Detroit vào tháng 8, khi sự kết hợp giữa quân đội Mỹ bản xứ và Anh buộc tướng William Hull phải đầu hàng cho dù ông vẫn có lợi thế về quân số hơn hẳn đối phương. Anh đã vây hãm và thiêu rụi nhiều tiền đồn của Mỹ. Lực lượng Mỹ giành được nhiều thành công trong cuộc chiến trong đó có việc khôi phục lại vị trí dọc theo biên giới nhưng không bao giờ đe dọa được Canada - Anh.
Sự thất bại của cuộc xâm lược tưởng chừng dễ dàng đã khiến người Mỹ tỉnh mộng. Cuối cùng, Anh vẫn giữ vững địa vị của mình tại lục địa, đảm bảo sự độc lập của Canada trước tham vọng của Mỹ.
2. Trận chiến Antietam
Vào tháng 9/1862, Robert E.Lee đã xâm lược Maryland cùng với quân đội Bắc Virginia. Mục tiêu của Robert E.Lee là tận dụng các cơ hội để nhằm gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng Liên bang. Nhưng không may cho tướng Lee đó là thông tin về sự sắp đặt trận chiến bị lộ vào tay Twongs George McClellan - người đang nắm trong tay đội quân Potomac lớn hơn và di chuyển để đánh chặn Lee. Tổng thống Lincoln đã nhận ra đây là cơ hội để phá hủy hoặc vồ lấy lực lượng của tướng Lee.
Trận Antietam đã khiến 22.000 người thương vong, khiến nó trở thành ngày đẫm máu nhất trong lịch sử Mỹ. Tuy nhiên, trận chiến này cũng là cơ hội tốt nhất mà quân đội Liên minh có được để tiêu diệt quân đội Bắc Virginia.
3. Chiến dịch Drumbeat
Vào ngày 11/12/1941,
phát xít Đức và Italy tuyên chiến với Mỹ. Trong bản hiệp ước giữa Đức với Nhật Bản không đòi hỏi Berlin hành động trong trường hợp Tokyo bị tấn công. Nhưng Đức vẫn quyết định phát động cuộc chiến chính thức với Mỹ tại Đại Tây Dương. Trong lịch sử, đây được coi là sai lầm lớn nhất trong đời Hitler. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, nó đã tạo cơ hội đầu tiên cho các tàu ngầm Đức di chuyển qua ven biển Mỹ.
Trong 6 tháng đầu năm 1942, lực lượng tàu ngầm U-boat của Đức dưới sự chỉ huy của Đô đốc Doenitz được triển khai vào ven bờ biển phía đông. Người Đức đã quan sát thấy một số hạn chế trước trận Trân Châu Cảng để tránh sự can thiệp phát sinh của Mỹ. Cuối cùng, tàu ngầm Đức đã gặt hái được thành công lớn trong khi không có bất kỳ quan chức nào của Không quân Mỹ, Hải quân Mỹ hay cơ quan bảo vệ dân sự chuẩn bị tốt cho việc đương đầu với tàu ngầm.
Kết thúc trận chiến, thiệt hại của quân đồng minh đã tăng gấp đôi so với năm 1941 và ở mức cao trong suốt năm 1942. Thành công của Đức quốc xã khiến Anh càng thêm lo lắng. Do đó, Anh nhanh chóng gửi cố vấn sang Mỹ để giúp phát triển học thuyết chống tàu ngầm.
4. Chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953
Sau khi bảo vệ thành công Pusan và chiến thắng trên bãi biển Inchon, quân đội và thủy quân lục chiến Mỹ dưới sự hỗ trợ của lực lượng Hàn Quốc đã tiến sâu vào lãnh thổ Triều Tiên nhằm phá hủy chính quyền Bình Nhưỡng và chuyển giao toàn bộ quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên cho chính quyền Seoul.
Đây là một thảm họa hoạt động và chiến lược. Khi quân đội Mỹ tiếp cận biên giới Trung Quốc từ 2 trục khác nhau rộng lớn, quân đội Trung Quốc đã tập trung ở vùng núi của Triều Tiên. Trung Quốc đã tăng cường đưa ra các cảnh báo ngoại giao nhưng Mỹ vẫn ngây ngất trong chiến thắng ở Inchon, nên không để tâm tới điều này. Đặc biệt là khi Trung Quốc thời điểm đó rất nghèo, quân đội lại yếu còn Liên Xô cho thấy không thể can thiệp trực tiếp nên Mỹ đã chủ quan.
Khi Trung Quốc phản công lại vào tháng 11/1950, Bắc Kinh đã khiến quân đội và Thủy quân lục chiến Mỹ nếm mùi thất bại và chịu tổn thất nặng nề. Chỉ trong một thời gian, Quân đội Trung Quốc (PLA) dường như đã đánh lực lượng Liên hợp quốc tơi bời.
5. Giải tán quân đội Iraq
Ngày 23/5/2003, Paul Bremer (người đại diện chính phủ lâm thời tại Iraq) đã ra lệnh quân đội Iraq giải tán. Đây được cho là một quyết định khủng khiếp vào thời điểm đó.
Quân đội Iraq đã dính líu sâu sắc tới cơ cấu quyền lực Baathist thống trị Iraq trong suốt nhiều thập kỷ. Nhiều lãnh đạo đã phạm tội ác chiến tranh, chống lại thường dân Iraq. Bremer lập luận việc giải thể quân đội nhằm phản ứng lại cuộc xâm lược của Mỹ ở Iraq.
Quân đội Hoàng gia Iraq ra đời đầu những năm 1920 trong bối cảnh Iraq vẫn được Đế quốc Anh bảo hộ. Năm 1941, Iraq vùng lên nổi dậy nhưng người Anh đã có quyết định khôn ngoan khi giữ Iraq để duy trì trật tự. Năm 1948, lực lượng này chiến đấu chống lại quân đội Israel trong cuộc chiến giành độc lập của Israel. Trong những năm 1980, Iraq tiến hành cuộc chiến 8 năm chống lại Iran.
Tuy nhiên, quân đội Iraq đã liên tục nếm mùi thất bại trong hầu hết các nhiệm vụ quân sự khi không nhận được sự hỗ trợ từ Mỹ. Trong cuộc chiến chống IS, quân đội Iraq đã trở thành trò cười cho khu vực.
Tâm Anh (theo National Interest)