Cho đến hôm nay, xung quanh chuyện lá thư này có rất nhiều huyền thoại.
Thứ hai, ngày 31 tháng 1 năm 1983, trên trang nhất báo Nhân Dân trang trọng đưa tin "Hoạt động của đoàn đại biểu Thanh niên Cộng sản Liên Xô" trong đó có đoạn: "Tại Công trường Thanh niên Cộng sản, đông đảo cán bộ, công nhân Việt Nam và chuyên gia Liên Xô đã tổ chức mít-tinh nồng nhiệt chào đón các đại biểu đến thăm công trường. Trong không khí dạt dào tình hữu nghị anh em, đồng chí Vũ Mão và đồng chí V.M.Mi-sin long trọng chuyển bức thư 'Gửi thế hệ trẻ Việt Nam mai sau' vào kho lưu trữ...".
Sự kiện này diễn ra sau lễ ngăn sông Đà đợt I và khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình 18 ngày. Tất cả thông tin về lá thư gửi đời sau chỉ có vậy và cái " kho lưu trữ" đó thực chất chỉ là một khối bê tông hình thang có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn . Hồi đó, chúng tôi ở trên công trường Thủy điện Hòa Bình cũng được nghe lõm bõm về lá thư đó và cũng chỉ được nghe giải thích là đến năm 2100, nhà máy hết hạn sử dụng phải phá đi thì lúc đó mới được mở lá thư ra xem.
Trong một lần đi với ông Ngô Xuân Lộc - nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ và năm 1982 là Tổng Giám đốc Tổng Công ty xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình, tôi có hỏi ông về chuyện này... Rồi tiếp theo, tôi lại được gặp ông Đỗ Xuân Duy - nguyên là thư ký của cố Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phan Ngọc Tường và trước đó là Tổng Giám đốc tiền nhiệm của ông Lộc.
Câu chuyện về lá thư được tái hiện
Khi nhà máy chuẩn bị được khởi công thì ông Bagachencô - Trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô có nói là theo thông lệ ở Liên Xô và một số nước trên thế giới, những người xây dựng đập thủy điện thường viết một lá thư và bỏ vào một chiếc chai thủy tinh, chôn vào lòng đập và thường gọi là "lá thư gửi hậu thế".
Thấy đây là ý tưởng cũng hay và mang màu... huyền thoại nên lãnh đạo Tổng Công ty đã báo cáo lên ông Đỗ Mười, khi đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - Trưởng ban chỉ đạo xây dựng Thủy điện Hòa Bình.
Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và ông Đỗ Mười cho phép, lãnh đạo Tổng Công ty mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết lá thư. Tuy nhiên, ông Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam không có tục lệ này, cho nên không được "chôn" vào lòng đập mà đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo Tổng Công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông.
Số người tham gia viết khá nhiều, trong đó có cả Bí thư đảng ủy Đoàn chuyên gia Liên Xô, ông Giaseplin. Để chọn lựa những lá thư hay nhất Đảng ủy Tổng Công ty cử hẳn ra một nhóm soạn thảo, nhưng "rất bí mật".
Ông Đỗ Xuân Duy kể lại rằng: Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể bởi lấy ý hay, lời đẹp từ nhiều lá thư.
|
Thủy điện Hòa Bình. |
Nhưng chắc chắn có đoạn văn của hai người đó là nhà báo Thép Mới và Giaseplin. Vì là người đã dịch lá thư đó từ tiếng Việt ra tiếng Nga, hơn nữa, lời văn trong lá thư lại rất nuột nà, mang "nét" như giọng văn của bài "Cây tre Việt Nam", cho nên ông Duy đã thuộc lòng, thậm chí từng dấu phảy, dấu chấm. Tuy nhiên, ông tôn trọng cái sự bí mật "gửi thế hệ đời sau" cho nên chỉ đọc cho tôi một vài đoạn ngắn.
Đoạn mở đầu là của nhà báo Thép Mới: "Hôm nay, trước núi Tản, sông Đà, những Sơn Tinh của thời đại mới - những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình Việt Nam và Liên Xô gửi đến các thế hệ trẻ Việt Nam mai sau những dòng tâm huyết...".
Rồi tiếp theo, lá thư nói về những khó khăn: "Thế hệ chúng tôi cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, nhưng chúng tôi vẫn chắt chiu và quyết tâm xây dựng công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, biểu tượng tốt đẹp của tình hữu nghị Việt - Xô cho đời đời con cháu mai sau". Còn Giaseplin thì có đoạn: "Hòa Bình - tên gọi của công trình là biểu tượng tuyệt đẹp và ước mơ của toàn nhân loại".
Tại sao lại phải đến năm 2100 mới được mở?
Về việc này, có hai ý kiến giải thích: Thứ nhất, đã là thư gửi "thế hệ đời sau" thì có nghĩa là lúc đó, những người sinh ra vào lúc Thủy điện Hòa Bình khởi công, có lẽ không còn mấy người, và những công nhân, kỹ sư... tham gia xây dựng nhà máy cũng đã thành người "thiên cổ" từ lâu.
Thứ hai, vào năm 2100, lớp bùn dưới lòng hồ đã dày thêm khoảng 56m, như vậy là không thể phát điện được nữa. Cần phải cho nhà máy nghỉ ngơi để nạo vét lòng hồ, hoặc phá bỏ nhà máy... Và lúc đó mới mở lá thư cho thế hệ ngày đó biết ngày xưa, lớp cha ông đã lao động như thế nào.
Lá thư viết xong và đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước duyệt. Còn nghi lễ đặt lá thư cũng được tiến hành rất cầu kỳ, đặc biệt là việc lựa chọn... 4 người để bắt 4 vít gắn tấm biển với khối bê tông. 4 người được lựa chọn theo tiểu chuẩn như sau: Phải có già, có trẻ. Phải có nam có nữ. Phải có Việt Nam và Liên Xô. Và phải có người... trên trời và người... dưới đất.
Phải có già có trẻ thì không khó. Hai người được chọn là ông Vũ Mão, khi đó là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn và đồng chí Misen - Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Liên Xô. Có nam, có nữ thì hơi khó hơn. Có nam thì dễ, nhưng nữ thì chọn ai?
Chị Lê Thị Ngừng - công nhân lái máy xúc EKG, sau này là Anh hùng lao động được đề cử. Một nữ kỳ thủ vô địch thế giới người Grudia ở trong đoàn đại biểu thanh niên Liên Xô cũng được giới thiệu. Nhưng còn... người trên giời và người dưới đất thì ai đây?
Người dưới đất thì là Tổng Giám đốc Ngô Xuân Lộc, hoàn toàn xứng đáng. Nhưng còn người trên trời? Cuối cùng, mọi người chọn phi công vũ trụ thứ hai của Liên Xô là chị Xavitxkaia. Chiều ngày 30 tháng 1 năm 1983, tại sân nhà Điều độ Trung tâm. Một buổi lễ long trọng được tổ chức với sự tham gia của 250 đại biểu thanh niên Liên Xô, 350 đại biểu thanh niên Việt Nam và hàng ngàn công nhân.
Ông Ngô Xuân Lộc đọc lá thư bằng tiếng Việt, ông Giaseplin đọc bằng tiếng Nga. Sau đó, hai lá thư được bỏ vào một chiếc thỏi đồng được khoan rỗng và có nắp đậy rồi bỏ vào lòng khối bê tông. Tiếp theo, các ông Vũ Mão, Mi-sen; Ngô Xuân Lộc và Xavitxkaia mỗi người một chiếc tuốc-nơ-vít bắt vít tấm biển thép có đề dòng chữ "Nơi đặt lá thư gửi thế hệ đời sau" vào khối bê tông.
Buổi lễ đã diễn ra trong sự trang nghiêm, xúc động và thiêng liêng. Nhưng mấy ngày sau, chả hiểu kẻ nào đã lấy đi một chiếc vít. Thế là người ta cho hàn chặt lại. Chúng ta hãy chúc cho nhau được sống đến năm... 2100 để được xem lá thư đó. Lãng mạn thật!
Theo Hôn nhân & Pháp luật