Ba Đồn hiện nay là thị trấn và là huyện lỵ huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách Đèo Ngang về phía Nam khoảng 20km và cách sông Gianh về phía Tây Bắc khoảng 7km.
Vua Lê ngự giá Nam chinh
Theo chúng tôi địa danh Ba Đồn có nguồn gốc xuất xứ của nó và gắn chặt với thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh.
Năm Nhâm Tý (1672), tháng Tư, mùa hạ, Tây vương Trịnh Tạc cho rằng Nguyễn Phúc Tần, tổng trấn Thuận Quảng, tự xưng Thái úy Dũng Quốc công, đã từ lâu cậy thế hiểm trở, chống lại mệnh lệnh triều đình (vua Lê) không chịu phục, bèn hạ lệnh trưng dụng binh lính các xứ sắm sửa vũ khí, sắp sửa có việc với Nam Hà. Chúa Trịnh tế cáo trời đất, sai Phó đô tướng thái phó Ly Quận công Trịnh Đống làm thống lĩnh đến Nghệ An hợp sức với Thống suất thiếu úy Đào Quang Nhiên, liệu tính bố trí để khống chế nơi biên giới.
Tháng 6, thân phò vua Lê ngự giá Nam chinh, giao cho Tiết chế phủ thái úy Nghị Quốc công Trịnh Căn đem quân đi trước. Tháng 8, mùa thu quân Lê Trịnh tiến đến châu Bố Chính (sau là ba huyện Bình Chánh, Minh Chánh và Bố Trạch) liền sai các tướng chia quân vượt qua sông Đại Linh (sông Gianh) sang bờ nam đóng trại, hiểu dụ quân và dân hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam rằng: Đánh kẻ có tội là để cứu lấy dân, ấy là ý nghĩa dấy quân của vương giả.
Nhân dân các ngươi trong hai xứ vốn là nhân dân và đất đai của Thánh tổ Thần Tông trong Hoàng triều (nhà Lê) ta, chứ không phải là của sở hữu do họ Nguyễn khai thác. Trên nhờ đức Thánh vương xưa, nghĩ tình là chỗ bà con họ mạc, nên mới tâu xin Tiên hoàng đế chuẩn y cho Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng trấn giữ hai xứ, cung nộp cống thuế để góp phần chi dùng trong nước. Nguyễn Hoàng chỉ trời đất mà thề, hứa xin hết đạo làm tôi giữ lòng chung thủy...".
Sau khi phân tích những điều phải trái, những uẩn khúc, Trịnh Căn nói, đối xử với Nguyễn là việc làm bất đắc dĩ, nay phải dấy quân là tình thế phải làm. Nay, các ngươi quân và dân trong hai xứ nếu biết bỏ chỗ tối ra chỗ sáng, xa lánh kẻ bạo ngược, theo về với người nhân đức, hoặc trở giáo đầu hàng, hoặc đến cửa quân xin đầu thú thì hễ là dân thường thì được giảm sưu nhẹ thuế.
|
Ảnh minh họa. |
Trịnh - Nguyễn đều xây đồn ở sông Gianh
Tháng 10, mùa đông, Vua Lê xa giá tiến đóng ở xã Chánh Thủy, chúa Trịnh vào doanh Bố Chính, chia quân đóng đồn từ xã Phú Xá đến lũy Trấn Ninh, sai Tiết chế Trịnh Căn đưa quân thủy đóng ở sông Đại Linh (sông Gianh) đánh các đồn quân Nam ở bãi biển. Tiết chế quân Nam (quân của chúa Nguyễn) là Hiệp Quận công bèn chia quân ra cố sức đánh, hai bên đều bị thiệt hại nặng.
Tháng 11, chúa Trịnh rước xa giá vua Lê rút về đóng ở Phù Lộ, xã Vĩnh An thuộc châu Bắc Bố Chính. Chúa Trịnh cho rằng đất Hóa Châu ẩm thấp, gặp giữa mùa đông lại càng giá buốt, quân lính khó ở lâu được, bèn xin vua Lê kéo quân về, phàm những trai gái già trẻ bắt được đều cấp cho tiền và gạo cho về. Sai Lê Thời Hiến trấn giữ xứ Nghệ An kiêm trấn giữ châu Bố Chánh. Binh bộ Tả Thị Lang bồi tụng Lê Sĩ Triệt làm đốc thị, tả thị lang, Nguyễn Danh Thực làm phó đốc thị, khống chế biên cương, giữ gìn an ninh cho dân địa phương, dùng sông Đại Linh làm giới hạn.
Để phòng những cuộc tấn công lẫn nhau, chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn đã xây dựng một hệ thống đồn lũy khá kiên cố. Ở phía Bắc sông Gianh, chúa Trịnh đã xây dựng ba cái đồn và một cái lũy. Lũy xây bằng đá từ Đèo Ngang kéo dài lên tận Xuân Sơn. Hiện nay, dấu vết của lũy thành còn nhiều đoạn. Ở bờ Nam sông Gianh chúa Nguyễn cũng xây dựng một hệ thống đồn lũy gồm ba cái đồn ở Ba Đề, Cao Lao Thượng, Cao Lao Hạ. Trong đó Cao Lao Hạ là đồn chính. Đồn này có xây thành lũy bao bọc, hiện nay dấu vết vẫn còn nguyên.
(còn nữa)
Tất Đạt