Nam quyền có lịch sử từ lâu đời, nguồn gốc đến hơn 400 năm lưu hành ở các tỉnh bờ nam dòng Trường Giang (
Trung Quốc). Nam quyền ở các nơi phát triển qua thời gian mà tự thành chỉnh thể và mang phong cách riêng. Sau khi nhà nước Trung Quốc thành lập năm 1949 đã thống nhất nhiều lưu phái võ thuật trong dân gian gọi chung là Wushu. Từ đó tới nay, Nam quyền và các bộ môn võ khí như Nam đao, Nam côn… là những nội dung thi đấu bắt buộc của võ sinh Wushu.
|
Võ sinh Wushu Trung Quốc trong bài thi Nam quyền môn Wushu tại Olympic Bắc Kinh 2008. |
Với nội dung vô cùng phong phú, thâu tóm phần lớn những tinh hoa võ học dân gian của Trung Hoa, các lưu phái Nam quyền trải dài suốt một dải bờ nam sông Trường Giang ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Chiết Giang, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Giang Tô… đủ cho thấy sự đa dạng cũng như đặc thù riêng của mỗi lưu phái do hấp thụ văn hoá theo từng vùng miền, từng dòng họ, từng địa hình tự nhiên.
Đặc điểm chung của Nam quyền là lấy hình làm quyền, lấy ý làm thần, lấy khí thúc lực, lấy quan phát khí (quan ở đây là đóng, tức bế khí); động tác giản dị rõ ràng, thế quyền kịch liệt, giàu vẻ đẹp dương cương; chi trên động tác tương đối nhiều. Về thân pháp thì yêu cầu trầm vai hạ khuỷu, co ngực mở lưng; về thủ pháp thì chuyên đánh ngắn, cầm nã, điểm đánh các huyệt vị. Về bộ pháp phần lớn yêu cầu lấy tứ bình đại mã làm cơ sở, trọng tâm hạ tương đối thấp, bộ pháp ôrn định vững vàng, đồng thời yêu cầu hạ chân xuống đất bám chặt như mọc rễ.
Ngoài đặc điểm chung, các lưu phái Nam quyền còn có những đặc điểm riêng. Như trong Tượng hình quyền, Long quyền lấy luyện “thần” làm chính, đặc biệt coi trọng khí trầm Đan điền, hai cánh tay xuôi lặng. Khi vận động lên thì hung hãn mau lẹ, toàn thân hoạt bát như thần long lướt trên không, co rút nhưng có lực thế mà không nghiêng vẹo. Khi giao đấu thì thường dùng “Long trảo” (Vuốt rồng) ngoài như sắt, trong như bông, trong lỏng ngoài chặt.
|
Võ sinh Wushu biểu diễn Nam đao. |
Hổ quyền thì lấy luyện “cốt” (xương) là chính, khi luyện phải đẩy khí của toàn thân, tay cứng hông thực. Khi giao đấu thường dùng Hổ chưởng, lấy khí phát lực, thế quyền hung mãnh. Cổ, họng dùng kình lực cực kỳ mãnh liệt, phải nghiến răng mím miệng, mắt hổ hau háu, thể hiện đầy đủ cái oai của hổ mạnh.
Hạc quyền lấy luyện tinh làm chủ. Theo hình hạc thì tinh đủ, thần tĩnh, khi luyện phải ngưng tinh đúc thần, lỏng tay động khí, tâm thủ tương ứng. Kê quyền coi trọng kỹ xảo, giỏi dùng chỉ, trảo, đỉnh (ngón tay thẳng, ngón tay quắp như vuốt, húc) luyện sao cho hai tay bật vung như gà vỗ cánh hay dùng trửu pháp (cùi chỏ) đánh như “kê dực” (cánh gà). Ngoài các thứ kể trên ra còn Báo quyền, Xà quyền, Sư (tử) quyền… ở mỗi lưu phái đều có đặc điểm riêng cả.
Ngoài ra, các lưu phái Nam quyền còn khác nhau ở những phong cách độc đáo riêng. Như Nhạc gia quyền lấy “công làm chủ, thủ là phụ”, tay trái là tay hư, tay phải là tay thực, chú trọng thực dụng. Điêu gia quyền lại lấy “thủ làm chủ, công là thứ”, trong nhu có cương, trong cương có nhu, mượn sức đối phương mà thừa kế phản kích. Hay Địa đường quyền pháp yêu cầu chi trên linh hoạt đa biến, lại phải có tương đối nhiều động tác ngã, ngáng cắt, vặn xoắn, đá gạt… Các môn phái Hồng, Lưu, Lý, Sái, Hiệp gia, Sái (Thái) Lý Phật gia… ngoài các đặc điểm chung của Nam quyền vốn có thì cũng mang trong mình những độc chiêu, bản sắc riêng.
Trong Nam quyền Quảng Đông trừ Hồng Gia quyền, Lưu gia quyền, Sái (Thái) gia quyền, Lý gia quyền, Mạc gia quyền hay còn được gọi là “Ngũ đại lưu phái”, còn có Vịnh Xuân quyền, Côn Luân quyền, Hổ hạc song hình quyền (hai hình hổ hạc), Sái (Thái) Lý Phật quyền, Hiệp gia quyền, Bạch Mi quyền, Nam cực quyền, Nho quyền, Phật gia quyền, Điêu gia giáo, Chung gia giáo…
Nam quyền Quảng Tây có Chu gia quyền, Đồ long quyền, Hồng môn phục hổ quyền và Tiểu sách đả…
Nam quyền Phúc Kiến có Ngũ hình quyền (long, xà, hổ, báo, hạc quyền Nam Thiếu Lâm), Ngũ tổ quyền, La Hán quyền, Mai Hoa trang, Liên thành quyền, Địa thuật quyền pháp, Vĩnh gia pháp, Ngư pháp (Cá pháp), Kê pháp (Gà pháp), Sư quyền (Sư tử), Hầu quyền (Khỉ), Ngũ Mai quyền, Nho pháp, Phỏng điểu tích (theo dấu chim)… rất nhiều lưu phái.
Nam quyền Hồ Nam có Vu gia quyền, Hồng gia quyền, Khổng Môn quyền, Nhạc gia quyền, Ngư Môn quyền, Tôn Môn quyền là 5 phái lớn. Còn Vũ gia nghệ, Nại Môn, Phật Môn, Ẩn tiên Môn, Thuỷ Hử Môn, Nghiêm Môn, Hùng Môn, Chưng Môn…
Nam quyền Tứ Xuyên có Tang, Nhạc, Triệu, Đỗ, Hồng, Hoá, Tự, Hội là 8 lưu phái lớn.
|
Huyền thoại Võ thuật Lý Tiểu Long trong một tư thế Hổ quyền. |
Nam quyền Chiết Giang có Hắc hổ quyền, Kim Cương quyền, Ôn Châu Nam quyền, Đài Châu Nam quyền.
Nam quyền Giang Tây có 36 lộ Tống Giang quyền, Hổ quyền…
Nam quyền Giang Tô cũng có sự khác biệt giữa quyền của Tô Châu, Vô Tích, Thượng Hải, Hàng Châu…
Liệt kê như vậy cho thấy sự đa dạng về tên gọi cũng như tính vùng miền ảnh hưởng rất lớn đến Nam quyền. Hiện nay, các nhà nghiên cứu
võ thuật Trung Hoa và Liên đoàn võ thuật nước này đã tổng hợp, hiệu chỉnh và đi đến thống nhất thể thức của Nam quyền trong các nội dung thi đấu của môn Wushu trên toàn thế giới.
Minh Ngọc (tổng hợp)