Khả năng diệu kỳ của nhà tiên tri ngủ gật

Google News

Ông là nhà tiên tri nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Ông luôn đưa ra lời tiên tri mỗi khi đang say giấc.

Nhà tiên tri thích… ngủ gật

Được cho là một trong những nhà tiên tri nổi tiếng nhất thời hiện đại,  Edar Cayce (Mỹ) không chỉ nổi tiếng với những dự đoán chính xác về tương lai mà còn bởi ông có thể chẩn đoán và điều trị cho những người bệnh mặc dù chưa từng được đào tạo về nghề y.

Người ta gọi Cayce là nhà tiên tri ngủ mơ vì ông luôn đưa ra những lời dự đoán của mình trong khi đang say giấc, và sau khi tỉnh dậy, ông không còn nhớ gì về những điều mà mình đã nói. Ông đã dự đoán được hai cuộc đại chiến thế giới với thời điểm bắt đầu và kết thúc, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929, theo sau đó là sự tăng trưởng kinh tế trở lại năm 1933. Ông cũng dự đoán được sự thất bại của quân Đức tại Kursk Bulge, sự sụp đổ của phát xít và chiến thắng của Liên Xô trong cuộc chiến vệ quốc.

Edgar Cayce sinh năm 1877 tại một làng quê gần Hopkinsville thuộc tiểu bang Kentucky. Thuở nhỏ cậu Edgar học rất kém, năm lên 9 tuổi vẫn không biết đánh vần một chữ ngắn. Một hôm ông bố kèm mãi không thấy con đánh vần đúng bèn bỏ ra ngoài và cho cậu bé nửa giờ để ngồi ôn tập. Cậu bé Edgar thay vì ngồi học đánh vần lại thiu thiu ngủ, và lạ thay, trong giấc mơ màng cậu nghe thấy tiếng ai nói vào tai: “Cứ ngủ đi, ta sẽ giúp con học”.

Nửa giờ sau, bị đánh thức dậy và tiếp tục đánh vần, thì kỳ diệu thay, cậu đánh vần trơn tru không những một chữ mà cả một tập! Suốt thời niên thiếu, Edgar đã nhiều lần đắm chìm trong những cơn mê sảng kỳ diệu. Cayce rất muốn trở thành một giáo sĩ nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục theo đuổi con đường học vấn.

 Nhà tiên tri Edgar Cayce.

Cảm thấy cuộc sống làng quê không thích hợp với mình nên học hết lớp 9, Cayce ra tỉnh kiếm sống rồi làm đủ mọi việc như thư ký văn phòng, bán sách, bán bảo hiểm... Đến năm 21 tuổi, một sự việc xảy ra bất ngờ lầm thay đổi cuộc đời ông. Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều vô hiệu và không một vị bác sĩ nào có thể chữa khỏi. Vì bị bệnh nên không thể tiếp tục làm việc như một nhân viên bán bảo hiểm, ông trở về quê sống với cha mẹ.

Cayce ở nhà gần một năm không hoạt động gì cả và dường như bệnh của ông không thể chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo nghề chụp ảnh vì nghề này không bắt buộc phải dùng đến giọng nói. Trong khi Cayce đang tập sự nghề chụp ảnh, thì có một nhà thôi miên tên là Hart đi ngang qua ngôi làng của ông để biểu diễn tài nghệ của mình. Hart khi nghe nói ông bị chứng bệnh tắt tiếng mới đề nghị chữa bệnh cho ông bằng phương pháp thôi miên. Ông đã vui vẻ nhận lời.

Trong khi thôi miên, ông tuân lệnh theo mệnh lệnh của Hart và nói chuyện như thường, nhưng cứ đến khi tỉnh dậy là bị tắt tiếng. Ông Hart sau đó vì phải di chuyển qua tỉnh khác theo chương trình sắp đặt nên không thể tiếp tục chữa bệnh cho ông nữa. Nhưng cũng lúc đó có một người tên là Layne ở địa phương, người này đã theo dõi cuộc chữa bệnh cho ông từ đầu và muốn tiếp tục điều trị.

Layne nảy ra một phương pháp mới là dẫn dụ cho ông trong giấc chiêm bao hãy tự miêu tả lại căn bệnh của mình. Và kỳ lạ thay, nhờ phương pháp này ông đã tự chữa khỏi bệnh cho bản thân mình.

Ngạc nhiên hơn, sau sự việc này, Cayce lại khám phá ra mình có một khả năng kỳ lạ, mỗi khi chìm vào giấc ngủ bằng thôi miên, ông có khả năng chẩn đoán bệnh rất chính xác, biết được quá khứ của một cá nhân và có tài dự đoán tương lai vô cùng hiệu nghiệm. Rất nhiều dự đoán của ông đã trở thành sự thật.

Những lời tiên tri kỳ lạ

Vào thời điểm cuối những năm 1920, thị trường chứng khoán Mỹ liên tục tăng điểm và trò chơi cổ phiếu có thể đưa người ta trong một đêm hóa thành tỷ phú. Nhiều tổ chức đua nhau mở lớp dạy cách mua vào bán ra dựa trên kiến thức phân tích các con số và biểu đồ thống kê của báo cáo tài chính.

Còn Cayce lại phổ biến cho những học viên của mình cách chơi theo dự đoán của ông, thời điểm nào thị trường tăng điểm và chuẩn bị cuộc tháo chạy vào năm 1929. Thậm chí ông còn cung cấp cho học trò của mình danh sách các ngành công nghiệp sẽ tăng trưởng cao, hoặc mã số nào sẽ là mục tiêu đầu tư dài hạn ít biến động nhất.

Nhưng lời dự báo của ông không được nhiều người chú ý, dù thông tin đó không cần phải trả tiền công tư vấn. Tháng 10/1929, thị trường chứng khoán chao đảo và rớt đáy chỉ sau vài ngày, nhiều người thành tay trắng chỉ trong một đêm. Đây cũng là nguyên nhân gây ra cuộc đại khủng hoảng năm 1933 mà Cayce đã tiên đoán từ trước đó hai năm.

Đến năm 1939, Cayce tiên đoán cái chết của hai vị tổng thống trong văn phòng: “Bạn bị rối loạn, bạn bị phân chia giữa hai lằn ranh tư bản và lao động tại vùng đất của mình, trước khi bạn có vị Tổng thống thứ hai bị chết tại văn phòng của ông ta… một luật lệ đám đông ”.

Tháng 4/1945, tổng thống Franklin D. Roosevelt chết tại văn phòng; còn tổng thống John F. Kennedy bị ám sát tại Dallas, Texas vào thời kỳ tư tưởng phân biệt chủng tộc bị kích động dâng cao nhất. Kennedy bị giết trong thời kỳ đầu của cuộc đấu tranh đòi hỏi nhân quyền, và sự bất ổn xã hội liên quan đến chủng tộc cũng được ông dự đoán từ trước.

Trong lĩnh vực khảo cổ học, Cayce tiết lộ sẽ có một vùng đất mới xuất hiện vào năm 1968 hoặc 1969, tại ngoài khơi bờ biển phía đông của Bắc Mỹ, và ông gọi nó là “sự trồi lên của Atlantis”.

Trong thời gian đó, giới khảo cổ phát hiện ra đường Bimini ở Đại Tây Dương. Tuy có tranh cãi giữa hai giả thuyết đó là con đường nhân tạo, hay do xói mòn tự nhiên, nhưng nhiều người vẫn tin rằng đây là một phần của vùng đất Atlantis được Cayce đề cập đến.

Theo Cayce, Atlantis là một nền văn minh cổ có công nghệ phát triển vượt qua cả nhân loại ngày nay, và vùng đất này đã bị nhấn chìm xuống Đại Tây Dương khoảng 10 ngàn năm trước đây. Kích thước của nó lớn hơn châu Âu chút ít, và trải qua ba giai đoạn hình thành. Hai giai đoạn đầu cách nay khoảng 15.600 năm, nó có 3 hòn đảo chính là Poseida, Og và Aryan.

Người Atlantis đã phát triển được hệ thống năng lượng giống như tia laser, và đây chính là nguyên nhân thứ hai đã phá hủy lục địa này. Cayce nói sở dĩ người Atlantis bị diệt vong hoàn toàn do bản tính tham lam và đầy dục vọng của họ, nhưng trước khi cơn đại hồng thủy ập đến đã có nhiều cuộc di cư của người Atlantis đến Ai Cập. Và câu chuyện thánh Noah cứu một phần nhân loại trên chiếc thuyền trong cơn lũ lớn là phản ánh sự kiện các vùng đất cuối cùng của lục địa này chìm xuống đại dương.

Mặc dù trong các dự báo của ông không thấy nhắc đến chiến tranh thế giới thứ ba, thế nhưng còn có một thứ còn nguy hiểm hơn thế, đó là những thiên tai dữ dội. Vào năm 1930, ông đã đoán trước về hiện tượng ấm lên toàn cầu, mặc dù vào thời điểm đó chẳng có ai nghĩ đến biến đổi khí hậu.

“Nơi nào có khí hậu lạnh giá hoặc bán nhiệt đới thì ở đó khí hậu nhiệt đới sẽ tăng cường rêu, và dương xỉ sẽ rất phát triển”, ông nói. “New York, Connecticut, và rất nhiều khu vực nước Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Los Angeles và San Francisco sẽ nằm trong số những vùng bị hủy diệt. Nước ở Hồ Lớn sẽ đổ vào vịnh Mexico”.

Cũng theo những lời tiên đoán của ông, biến đổi khí hậu cùng các cơn địa chấn sẽ làm rung chuyển toàn bộ hành tinh, gây ra những xáo trộn vô cùng lớn. Nhưng nước Nga là nước sẽ chịu ít ảnh hưởng nhất từ các biến cố đó. Nền văn minh sống dậy này sẽ có trung tâm ở Tây Siberia. Nhưng thời điểm mà những dự đoán trên xảy ra đều đã được lịch sử chứng minh là sai, bởi ông nói rằng tất cả những biến cố khủng khiếp về thiên nhiên kể trên diễn ra vào cuối thế kỷ 20.

Tuy nhiên, những xu hướng biến đổi khí hậu và địa chất ông đưa ra có thể sẽ đúng bởi các nhà khoa học cho biết trong khoảng 10 năm tới sông băng ở Greenland và Nam Cực sẽ tan dần, và có thể gây ra các hoạt động kiến tạo khủng khiếp như núi lửa phun trào, động đất, sóng thần và lũ lụt. Những tiên đoán của ông phần nào trùng với của nữ tiên tri Vanga. Vào năm 1979, bà nói rằng trong tương lai, mọi thứ sẽ tan chảy ra như băng đá, trừ có nước Nga sẽ không bị ảnh hưởng gì.

Ông cũng biết trước ngày mình ra đi khỏi thế giới này, và sẽ không tiếp tục lạm dụng khả năng đặc biệt quá hai lần trong một ngày, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhưng mỗi ngày có đến hàng nghìn ca chờ ông tư vấn, nhất là từ yêu cầu của những gia đình có người đi lính trong thế chiến không rõ tung tích. Ngày 1/1/1945, ông báo rằng bốn ngày nữa mình sẽ nằm dưới mộ và mọi chuyện đã xảy ra đúng như ông dự đoán.

Bác sĩ ngủ gật và những ca bệnh khó

Sau khi dùng phương pháp thôi miên tự chữa khỏi bệnh tắt tiếng, Cayce đã phát hiện ra rằng ông có khả năng chữa khỏi một số chứng bệnh nhờ vào phương pháp chẩn đoán bệnh đặc biệt của mình. Mặc dù chưa được học qua những kiến thức về y khoa nhưng những ca bệnh mà ông chữa khỏi khiến người ta kinh ngạc.

Chuyện kể rằng, vào một ngày nọ, ông nhận được điện thoại của một người cha khẩn thiết xin ông đến nhà chữa trị cô con gái mới lên 5. Cô bé ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ khi đó đến nay, em cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như người mất trí. Các bác sĩ đều không thể nào tìm ra nguyên nhân. Gần đây, em lại bị chứng co giật càng ngày càng nặng, và một vị bác sĩ đã tuyên bố rằng em bị bệnh não, không thể chữa nổi.

Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đem em trở về nhà để chờ chết. Một người bạn mới nói chuyện với họ về Cayce và khả năng chữa bệnh kỳ diệu của ông, cha mẹ cô bé đã ngay lập tức liên lạc với ông và coi đây là hy vọng cuối cùng.

Sau khi nhận được điện thoại, ông đồng ý đến tận nhà khám bệnh cho cô bé. Khi cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông tự hỏi rằng liệu mình có thể chữa khỏi bệnh cho đứa trẻ mà trước đó những nhà chuyên môn giỏi nhất trong ngành y cũng bó tay hay không. Ông cảm thấy hơi bất an khi nằm trên chiếc sofa trong phòng khách nhà cô bé, và ngủ mê thiếp đi. Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và chép bằng tốc ký những lời Cayce thốt ra như thường lệ.

Cayce bắt đầu diễn tả bệnh trạng của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị ngã từ trên xe xuống đất, sau đó virus cúm xâm nhập vết thương và điều này gây nên chứng co giật. Ông cho biết thêm rằng một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và giúp cho em nhỏ bình phục.

Gia đình cô bé vô cùng bất ngờ về nhận định của ông, mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã xe, nhưng vì không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã xe lại có ảnh hưởng đến bệnh trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo lời dặn của Cayce và trong vòng ba tuần, em nhỏ đã hết chứng co giật.

Chứng mất trí của em cũng đã được cải thiện, cô bé nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất của em mà em vẫn chơi trước khi bị bệnh; sau đó em gọi tên của cha mẹ em. Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố rằng cô con gái nhỏ của ông bà đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng lấy lại thời gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua.

Sau khi chữa được ca bệnh khó này, tiếng tăm của Cayce càng lan xa, báo giới khắp nơi đều phỏng vấn ông, viết về ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận được điện thoại và điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng muốn ông chữa bệnh cho họ. Ông không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bệnh nhân nào bởi ông hiểu họ đang rất nguy nan và cần ông.

Vì số lượng bệnh nhân quá nhiều nên ông đành phải định ngày khám cho từng người. Thay vì chỉ khám bệnh 2 - 3 lần một ngày, có khi ông khám bệnh đến 8 lần một ngày. Có trường hợp khiến người ta nhớ mãi, đó là việc ông đã chữa khỏi bệnh cho một người con gái ở Selma, thuộc tiểu bang Alabama, Mỹ, thình lình bị mất trí và được đem vào một nhà thương điên. Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy Cayce giúp đỡ.

Cayce bèn nằm trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nhìn vào thể xác của người thiếu nữ và khám bệnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, Cayce bắt đầu nói, cũng như bất cứ mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lệnh truyền của người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người thường, là ông Cayce bắt đầu diễn tả tình trạng thể chất của người bệnh, dường như cặp mắt ông có thể nhìn xuyên thấu.

Ông cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn lên một đường gân thông lên bộ óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường gân kia được giải tỏa, khỏi động lên tới óc, và đem bệnh nhân trở lại trạng thái bình thường. Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con gái thì thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho một vị nha sĩ nhổ răng thì người con gái liền hết bệnh điên.

Một câu chuyện khác rất lạ lùng: một thiếu phụ ở Kentucky (Mỹ) sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong rất nặng đến nỗi ba bác sĩ săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó sẽ không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn nhờ Cayce khám bệnh cho nó.

Trong giấc thôi miên, Cayce bảo đem cho nó uống một liều thuốc belladone và sau đó là một liều thuốc trừ độc. Những vị bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bệnh này, vì belladone là một thứ thuốc độc, nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất định tự mình đưa thuốc ấy cho con mình uống. Ngay tức khắc, chứng kinh phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được cứu sống và đã khỏi bệnh.

Một con người bất tử với thời gian

Những trường hợp chữa bệnh của ông Cayce đều được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến 30.000 hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và sẵn sàng được dùng làm tài liệu cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm.

Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản các cuộc khám bệnh có kê khai ngày tháng rõ ràng; những thư thỉnh cầu của bệnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bệnh; những bức thư bày tỏ sự biết ơn của những bệnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng minh của các bác sĩ; và những bản tốc ký chép lại những lời của ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện và tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về cách chữa bệnh kỳ diệu của ông Cayce.

Khả năng kỳ diệu của ông Cayce không bao lâu đã thu hút sự chú ý của những con buôn muốn trục lợi. Họ muốn nhờ vào khả năng của ông để làm giàu nhưng ông đã từ chối tất cả bởi lương tâm của ông chỉ cho phép giúp đỡ những người bệnh. Chuyện kể rằng,  một nhà buôn lớn về ngành bông vải đề nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm đô liên tiếp trong hai tuần để nhờ ông “xem” giùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy đang cần tiền, nhưng ông vẫn từ chối.

Có những người khác muốn nhờ ông chỉ những chỗ chôn giấu khoáng sản, hoặc chỉ con ngựa nào về nhất để thắng cá cược trong trường đua. Cayce đã thử làm để xem kết quả ra sao nhưng những lần như thế, sau khi thức tỉnh, ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình. Sau cùng ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng khả năng của mình một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bệnh cho nhân loại, và chỉ vì mục đích duy nhất đó mà thôi.

Năm 1922, Giám Đốc tờ báo Denver Post nghe nói đến Cayce,  mời ông đến Denver và đề nghị vmột việc như sau: Ông ta sẽ trả cho Cayce mỗi ngày 1.000 đô,  và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức những cuộc trình diễn lưu động trong xứ, nếu Cayce bằng lòng đổi tên họ và khoác lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khám bệnh bằng giấc thôi miên sau một tấm màn. Nhưng ông Cayce quyết liệt từ chối.

Trong những năm đầu, Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh, và luôn luôn từ chối nhận tiền thù lao về những cuộc khám bệnh của ông. Về sau, khi số người bệnh đến nhờ chữa càng ngày càng đông làm cho ông không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới nhận tiền thù lao vì ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối với những người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bệnh miễn phí.

Cayce đã ra đi vào đúng ngày mà ông dự đoán, nhưng có lẽ đối với ông, cái chết không bao giờ là dấu chấm hết bởi tiếng tăm của ông vẫn còn vang mãi. Sở hữu khả năng tiên tri kỳ lạ và tài chữa bệnh bằng phương pháp khác người nhưng hiệu quả, với một tấm lòng lương y như từ mẫu, ông đã trở nên bất tử với thời gian.


Theo Hôn nhân & Pháp luật