Người Việt hay chửi, thích chửi tục: vì sao?

Google News

(Kiến Thức) - Người Việt hay chửi, đặc biệt là chửi tục. Thế nhưng, nguyên nhân thì phải biết giai cấp nào, giới tính nào và so với các dân tộc khác xem sao...

Dưới góc nhìn của các nhà khoa học, những nét tính cách "khác thường" của người Việt như khoe của, ngồi lê đôi mách đều có cội nguồn văn hóa.
Vì sao người Việt hay chửi?
Bị mất cắp: chửi. Bị người khác va quệt xe: chửi. Bị ngã do đụng ổ gà: chửi. Nhân viên bán hàng tính nhầm tiền: chửi. Ra đường, thấy người ta ăn mặc lố lăng: chửi. Gà nhà hàng xóm sang phá vườn rau nhà mình: chửi. Thậm chí, gọt hoa quả bị đứt tay: cũng chửi nốt... Phải chăng, người Việt thích... chửi đến thế?
Chửi xuất hiện từ khi nào?
Thừa nhận chửi là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội, không phân biệt giới tính, trình độ, tuổi tác; thậm chí có những người coi đó là thói quen khi câu cửa miệng luôn kèm theo một lời chửi, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vỹ cho rằng, bản chất của sự chửi xuất hiện rất sớm. Theo đó, ngay từ thời nguyên thủy, con người ứng xử với tự nhiên theo hai hướng: Tự nhiên có lợi (mưa thuận gió hòa) và tự nhiên có hại (mưa bão, ngập lụt, hạn hán). Tuy nhiên, khi đó, trí tuệ con người chưa phát triển nên họ nghĩ các hiện tượng tự nhiên trừu tượng thành thánh, thành thần. Họ cũng chưa thể nghĩ ra cách khắc chế những hiện tượng tự nhiên có hại.
Cùng với cách nghĩ ấy thì con người nguyên thủy coi cái gì nói ra cũng thành hiện thực, vì thế có cầu khấn và nguyền rủa (để những hiện tượng gây hại sẽ bị mất đi, tiêu hao đi; cũng chính nguyền rủa đã tạo ra phù chú). Do đó, có thể khẳng định, chửi ra đời từ rất sớm và "tất cả các dân tộc đều có nguyền rủa và chửi".
Vì sao người ta lại chửi?
Theo ông Vỹ, ban đầu, chửi nhằm mục đích khắc chế những hiện tượng tự nhiên tiêu cực. Sau này, chửi còn để giải tỏa những bức xúc trong các mối quan hệ xã hội. Cũng có khi, người ta dùng chửi như một yếu tố nghệ thuật ngôn từ để thay thế pháp luật.
Ví như lúc bị mất con gà, người ta chửi rằng: "Tau chửi cho tan nát tông môn họ hàng cái quân khốn kiếp, cái quân vô hậu kế đợi đã ăn hết của tau bảy con gà xám, tám con gà vàng. Bay ăn chi mà ăn ác nhơn ác nghiệp, ăn một lần một chục rưỡi con gà. Bay ăn cho chồng bay sợ, cho con bay kinh, bay ăn cho ngả miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết để một mình bay ngồi đó mà ăn. Đồ cái quân ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột. Cái quân không sợ trời đánh thánh đâm...".
Cũng theo ông Vỹ, thuở xưa, người ta chửi có vần điệu. Điều này làm tăng thêm giá trị của nó, khiến người ta dễ đọc, dễ nghe, dễ nhớ hơn.
Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc thì cho rằng, sở dĩ của việc chửi là do con người tin có ma quỷ. Do đó, người ta dùng chửi như một cách để trấn áp ma quỷ gây hại cho con người. Chẳng hạn như mùng một Tết Nguyên đán, có một người xấu tính hoặc nhà có tang đến xông đất gia chủ, quan niệm dân gian coi đó là một điềm xui xẻo. Vậy nên, gia chủ dùng cách chửi bới để mong xua đuổi những cái xấu đó đi. Hay việc vừa mở hàng, nhà buôn đã bị mặc cả, "cò kè bớt một thêm hai", thậm chí khách không mua hàng nữa thì nhà buôn sợ bị "sái" nên cũng dùng cách chửi để xua đuổi.
 Sau va quệt xe trên đường thường xuất hiện những câu chửi.
Chửi tục vì ảnh hưởng văn hóa phương Tây
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vỹ, trong cách chửi của người Việt xưa thường có ba xu hướng.
Xu hướng thứ nhất là dùng những con vật bị khinh rẻ hoặc những thứ xấu xa, hôi thối để chửi như "tao cóc thèm", "đồ con khỉ". Bởi quan niệm con cóc, con khỉ là những con vật xấu xí.
Xu hướng thứ hai là dùng điều kiêng kị để chửi bằng cách lôi tên kín của ông bà, cha mẹ ra mà chửi. Nguyên do bởi người xưa quan niệm, khi tên của người nào đó được nói ra khiến Nam Tào, Bắc Đẩu biết sẽ bị "bắt đi", nghĩa là người đó sẽ chết. Do đó, người xưa thường giấu kín tên của ông bà, cha mẹ. Và khi lôi tên kín đó ra chửi nghĩa là nguyền rủa cho người ta chết đi.
Xu hướng thứ ba cũng liên quan đến chết chóc nhưng bằng các hoạt động của tôn giáo. Ví như trong truyện "Bước đường cùng" của Nguyễn Công Hoan có đoạn chửi như này: "Ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà, thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba, mày xuống âm phủ mày bị quỷ sứ thần linh rút ruột ra, ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia ạ!". Hay dùng thành ngữ "Ăn cháo lá đa" để chửi nhằm rủa người ta tuyệt tự vì theo tục lệ, rằm tháng bảy cúng cô hồn bằng cháo đặt trên lá đa.
Theo ông Vỹ, câu chửi sớm nhất của người Việt được ghi thành văn bản (chép trong Đại Việt sử ký toàn thư là: "Phải gọi là điện tiền Vũ Cứt thì đúng hơn chứ không phải Vũ Đái". Đây là câu chửi của một người hỏa đầu vào đời Lý Anh Tông khi bị chính Điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái phản bội.
Sau này, người Việt đã gắn thêm yếu tố tính giao khi đem các bộ phận sinh dục trên cơ thể con người vào câu chửi, thành chửi tục. Theo ông Vỹ, nguyên nhân bắt nguồn từ văn hóa phương Tây tràn vào ta khoảng thế kỷ XVII khi có những người phương Tây sang. Yếu tố tính giao không chỉ "ăn" vào trong câu nói mà kể cả trong các tác phẩm văn học.
Có phải người Việt hay chửi?
Dù thừa nhận "có thể bắt gặp người ta chửi ở bất cứ đâu" song nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc tỏ ra cẩn trọng khi nêu quan điểm: "Nhiều người bảo người Việt hay chửi, đặc biệt là chửi tục. Thế nhưng, nói là hay chửi tục thì phải biết giai cấp nào, giới tính nào, so với các dân tộc khác xem sao. Chừng nào chưa có thống kê, chưa có điều tra xã hội học thì không thể khẳng định được, nếu không nó sẽ chỉ mang tính chủ quan quy chụp mà thôi".
Ông Hữu Ngọc cũng cho rằng, bản chất của người Việt Nam qua các thời đại không có sự thống nhất. Bằng chứng là thời Pháp mới vào chiếm Việt Nam (nửa sau thế kỷ XIX), chỉ có mấy chục quân Pháp vào chiếm đồn mà đã khiến mấy nghìn người Việt ở đó chạy tán loạn. Người Pháp cho rằng đó là vì người Việt Nam hèn yếu. Thế nhưng chừng 70 năm sau, cũng những người hèn yếu đó lại cầm chân được binh hùng tướng mạnh, giành được độc lập.
Từ đó, ông nhấn mạnh: "Để đưa ra nhận định "người Việt hay chửi" thì cần hết sức thận trọng, không thể chỉ nhìn thấy hiện tượng mà đã vội khẳng định, quy kết thành bản chất được vì cũng tùy từng giai đoạn. Chẳng hạn, thời 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi có thấy chuyện cãi cọ, chửi bới nhau bao giờ".
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vỹ lập luận: "Nói người Việt hay chửi cũng có cơ sở ít nhiều khi thấy việc chửi khá phổ biến, kể cả những đứa trẻ con cũng có thể buột miệng chửi. Thế nhưng, có phải chửi tục nhất không thì tôi e là không thuyết phục. Bởi người Anh cũng chửi tục không kém đâu".
"Chửi cũng là một phản ứng tức thời của con người với hiện tượng đối diện. Vì thế mà xã hội nào càng tạo ra nhiều bức xúc nhất thì xã hội đó sẽ gánh chửi nhiều nhất. Nơi nào con người sống bất trắc nhất thì sẽ chửi nhiều nhất. Do đó, sẽ không ngoa khi cho rằng, người ta biết sự minh bạch, tiến bộ của một xã hội dựa vào việc xã hội đó phải nghe chửi nhiều hay ít".
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vỹ
(Còn tiếp)
An Nhiên