Những viên tướng Mỹ tử trận tại Việt Nam

Google News

Trong chiến tranh ở Việt Nam, có tới 11 viên tướng Mỹ đã tử trận theo nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trong lịch sử chiến tranh của quân đội Mỹ, con số này thực sự là hơi quá nhiều. Trong đại chiến thế giới lần thứ II cả chết và tử trận có gần 20 tướng lĩnh và một số đô đốc Hải quân. Trong chiến tranh Triều Tiên hai tướng Mỹ tử trận: Trung tướng Walton Walker đã tử vong trong tai nạn giao thông, Thiếu tướng Bryant Moore chết do đột quỵ sau một vụ tai nạn máy bay (trong danh sách còn có Chuẩn tướng Lawrence Rook, nhưng khi tử vong ông ta vẫn đeo lon đại tá). Các cuộc chiến tranh sau này, không có tướng Mỹ nào tử trận.
Con số tử vong lớn nhất là do kết quả của các tai nạn đường không - bảy tướng Mỹ. Hai viên tướng nữa chết do bị bắn trên chiến trường, hai tướng khác tử vong do các nguyên nhân tự nhiên. Trong thống kê có 6 trường hợp đang trong cuộc chiến, 5 trường hợp ngoài cuộc chiến. Theo dòng tình huống chiến trường, các tướng Mỹ tử vong nhiều nhất vào năm 1970, khi lực lượng quân đội Mỹ đông nhất ở chiến trường Việt Nam và cũng tham gia chiến sự căng thẳng nhất.
- Chuẩn tướng Alfred Moody, phó chỉ huy trưởng sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Kỵ Binh (cơ động đường không) của quân đội Mỹ. Tử vong ngày 19/03/1967 do một cơn trụy tim.
- Thiếu tướng William Cramm, chỉ huy trưởng Sư đoàn không quân số 3 của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược thuộc lực lượng Không quân Mỹ. W.Cramm chỉ huy và điều hành tất cả các hoạt động của Không quân chiến lược ở Đông Nam Á, bao gồm cả việc sử dụng các máy bay ném bom chiến lược B-52 và máy bay tiếp dầu. 07/07/1967 tướng Kramm bay trên chiếc B-52 (số 56-0595) thực hiện nhiệm vụ chiến đấu từ căn cứ không quân Anderson (Guam). Mục đích của cuộc ném bom là một thung lũng trên đường Trường Sơn, phía bắc Nam Việt Nam. Máy bay của Kramm va chạm với một chiếc B-52 trên vùng trời biển Đông gần cửa sông Cửu Long. Tướng Kramm và năm thành viên phi hành đoàn thiệt mạng trong vụ tai nạn, bảy người đã có thời gian để đẩy. Thi thể của viên thiếu tướng không tìm thấy.
- Thiếu tướng Bruno Hohmut, chỉ huy trưởng Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 3. Khoảng giữa trưa, 14/11/1967, ông bay trên chiếc trực thăng UH-1 (số 153.757), thuộc không đoàn số 3 trinh sát và yểm trợ hỏa lực) từ Huế đến Hội An đã phát nổ trong không trung. Cùng với Hohmutom, vụ nổ đã làm chết năm người, trong đó có một sĩ quan quân đội Sài Gòn. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố máy bay trực thăng bị bắn hạ.
Các phi công của máy bay trực thăng khác đi hộ tống chiếc UH-1 của thiếu tướng Hohmuta đã không phát hiện được chớp lửa súng phòng không của đối phương vào thời điểm xảy ra vụ nổ hay sau đó. Ủy ban điều tra quân đội Mỹ kết luận rằng vụ tai nạn xảy ra do cánh quạt đuôi máy bay bị hỏng, mặc dù rất khó để hiểu làm thế nào mà cánh đuôi hỏng có thể dẫn đến máy bay nổ. Tất cả các nạn nhân chính thức được coi là tử vong trong chiến đấu. Bruno Hohmut là tướng Mỹ duy nhất chỉ huy sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ chết trong chiến tranh.
 
- Thiếu tướng Robert Worley, phó chỉ huy trưởng Tập đoàn không quân số 7 thuộc lực lượng Không quân Hoa Kỳ. Ngày 23/07/1968, Worley thực hiện chuyến bay thám sát trên máy bay RF-4C (số 65-0895, 460 thuộc không đoàn trinh sát thuật) trong trong vùng chiến thuật khu vực I của miền Nam Việt Nam. Chiếc máy bay bị trúng đạn của hỏa lực phòng không trong khu phi quân sự DMZ. Khi "Phantom" bay trên biển, Worley đã ra lệnh cho phi công của mình, thiếu tá Robert Broadman nhảy dù, ban thân Worlen không nhảy dù mà cố gắng điều khiển chiếc F-4. Lửa xuất hiện trong buồng lái và phát nổ, máy bay bị rơi trên bờ biển thuộc tỉnh Thừa Thiên (tỉnh chính thức niêm yết vị trí tử vong của Worley. Sau cái chết của Warley, từ bộ tổng tham mưu liên quân đã có mệnh lệnh cấm tất cả các sĩ quan cao cấp của Không quân tham gia các chuyến bay chiến đấu.
 Thiếu tướng Keith Ware trên chiến trường Việt Nam.
- Thiếu tướng Keith Ware, chỉ huy trưởng Sư đoàn bộ binh 1 quân đội Mỹ tử vong vào thứ Sáu 13/09/1968, lúc 13.13 giờ. Keith Ware bay trên máy bay trực thăng UH-1 (số 67-17.552, đơn vị không quân thuộc Trung đoàn 1), bị bắn rơi bởi hỏa lực của Quân Giải phóng gần Lộc Ninh. Vào đêm trước các đơn vị thuộc Sư đoàn Bộ binh 1, tham gia cuộc hành quân Toàn Thắng đã chạm súng trong khu vực với một lực lượng lớn của Quân Giải phóng. Trong trận chiến, Weir trực tiếp chỉ huy lực lượng của mình. Vụ tai nạn đã làm chết bảy binh sĩ và một con chó giống Shepherd của Đức, do binh sĩ tặng Ware. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, Keith Weir đã được trao tặng Huân chương Danh dự (giải thưởng cao nhất của quân đội Mỹ) do đã thể hiện lòng dũng cảm trong cuộc chiến tháng 12/1944 tại Pháp. Là tiểu đoàn trưởng, Ware đã chỉ huy một nhóm binh sĩ 11 người triển khai tấn công đánh chiếm các vị trí địch, bản thân đã diệt năm binh sĩ Đức và bị thương trong chiến đấu.
- Chuẩn Tướng Charles Girard, tư lệnh trưởng bộ tư lệnh chỉ huy viện trợ quân sự cho chính quyền miền Nam Việt Nam. Đột ngột qua đời tại Sài Gòn ngày 17/01/1970.
- Chuẩn Tướng William Bond, chỉ huy trưởng Lữ đoàn 199 bộ binh hạng nhẹ quân đội Mỹ. 01/04/1970 trên địa bàn tỉnh của tỉnh Bình Tuy, các phân đội thuộc đại đội D Trung đoàn kỵ binh 17, phối thuộc với lữ đoàn thứ 199 đã tham chiến với Quân Giải phóng và bốn binh sĩ thiệt mạng. Tướng Bond bay đến khu vực chiến sự để kiểm tra các đơn vị bị tổn thất. Khi Bond vừa bước ra khỏi máy bay trực thăng thì một viên đạn bắn tỉa của Quân Giải phóng xuyên qua ngực. William chết khi được đưa tới bệnh viện.
- Thiếu Tướng John Dillard (Jr -con) Tư lệnh trưởng Bộ Tư lệnh Công binh thuộc quân đội Mỹ tại Việt Nam. Ngày 12/05/1970, Dillard cùng với chỉ huy trưởng lực lượng công binh số 937 Đại tá Carroll Adams bay trên chiếc máy bay trực thăng UH-1 (số 68-16.342), máy bay bị bắn hạ bởi hỏa lực phòng không ở khoảng 14 km về phía tây Pleiku. Ngoài Dillard Adams còn có tám người khác tử vong. Một quân nhân sống sót trong vụ tai nạn. Đại tá Adams sau này được truy tặng cấp hàm chuẩn tướng.
 Máy bay trực thăng UH-1 trúng đạn phát nổ.
- Thiếu tướng George Casey, chỉ huy trưởng Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 thuộc quân đội Mỹ. Casey tiếp nhận chức vụ vào tháng 5/1970, trong thời gian sư đoàn hoạt động tại Campuchia và chỉ huy được hai tháng. Ngày 07/07 trên đường đến khu vực quân cảng Cam Ranh thăm các binh sĩ bị thương trong bệnh viện. Chiếc máy bay trực thăng UH-1 (số 69-15.138) đã rơi vào các đám mây che phủ dày đặc và đâm vào vào sườn núi ở tỉnh Tuyên Đức (cũ). Toàn bộ phi hành đoàn bảy người thiệt mạng.
Một trong hai con trai của Casey là George W. Casey Jr, cũng đã trở thành tướng quân đội, chỉ huy lực lượng liên quân tại Iraq và giữ chức vụ tham mưu trưởng của quân đội Mỹ.
- Chuẩn Đô đốc Rembrandt Robinson, chỉ huy trưởng hải đoàn 11 các tàu tuần dương và tàu khu trục Hải quân Mỹ. Tử vong ngày 8/05/1972 trong vụ tai nạn máy bay trực thăng SH-3 (số 149.699), trên Vịnh Bắc Bộ khi đang quay về kỳ hạm chỉ huy của mình, tàu tuần dương tên lửa hạng nhẹ "Providence" (CLG-6), sau cuộc họp giao ban trên tàu USS "Coral Sea". Cùng với đô đốc Robinson còn có hai sĩ quan hải quân khác cũng tử vong.
 Kỳ hạm tuần dương tên lửa hạng nhẹ "Providence" (CLG-6).
- Chuẩn Tướng Richard Tollmen, phó Tư lệnh trưởng vùng 3 chiến thuật về yểm trợ hỏa lực. Tử vong ngày 9/7/1972 tại bệnh viện Sài Gòn do bị những vết thương quá nặng, khi Tollmen lọt vào một trận pháo kích ở khu vực An Lộc, quanh khu vực này đã diễn ra những trận đánh ác liệt. Trong sự cố này đã giết chết ba quân nhân Mỹ và một sĩ quan Nam Việt Nam. Tất cả những người Mỹ đã chết, trong đó có Tướng Tollmen được xác định nguyên nhân chính thức của cái chết là "tai nạn bất ngờ" -"misadventure" thuật ngữ chỉ nạn nhân tình huống bị bắn bằng" hỏa lực thân thiện" pháo binh của chính quân Mỹ. Theo trung tá James Uillbenksu, là người có mặt trong sự cố này, hỏa lực pháo binh là của Quân Giải phóng.
Một viên tướng của Không quân Mỹ cũng có thể được tính vào danh sách là trường hợp đại tá Edward Burdett, phi công máy bay ném bom F-105 bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam 18/11/1967. Trong nhiều năm, Burdett được xếp vào danh sách người mất tích trong chiến tranh và trong thời gian đó Burdett được thăng cấp thiếu tướng. Sau đó phía Bắc Việt Nam đã thông báo rằng Burdett chết vì vết thương quá nặng trong thời gian bị bắt làm tù binh. Hài cốt được trả về Mỹ năm 1974. Burdett không được tính vào số tướng lĩnh Mỹ đã chết ở Việt Nam cũng như cấp hàm tướng Burdett đã nhận được sau khi chết.
Cuộc chiến Việt Nam thực tế là một cuộc chiến tàn khốc và ác liệt nhất mà người Mỹ đã gây ra và phải gánh chịu hậu quả ngay cả trong hàng ngũ những sĩ quan cao cấp quân đội Mỹ. Sự tàn phá tâm lý và những bài học để lại của nó đã ngăn đôi lịch sử nước Mỹ. Lịch sử một nước Mỹ trước chiến tranh Việt Nam và nước Mỹ sau chiến tranh Việt Nam với nguyên tắc “không bao giờ lặp lại”.
Theo Tiền Phong