Ở miền xuôi, phụ nữ trong ngày dạm hỏi, cưới xin được gia đình nhà trai tặng lễ vật, tổ chức lễ cưới linh đình. Thế nhưng, ở chân đèo Phượng Hoàng thuộc huyện M’Đrắk, Đắk Lắk, “những đóa hoa rừng” hoang dại muốn “ăn đời ở kiếp” với nửa còn lại phải gom tiền để “hối lộ” cho gia đình người chồng.
Đỉnh Phượng Hoàng nằm ở khu vực cửa ngõ phía Đông tỉnh Đắk Lắk, giáp ranh với Khánh Hòa. Những ngày cuối tháng 9, khu vực Nam Tây Nguyên thời tiết mát mẻ, khô ráo. Sáng sớm trên đỉnh núi Phượng Hoàng, mây bay lững lờ. Phóng tầm mắt ra xa, con đèo như một con “mãng xà khổng lồ” đang trườn bao quanh những ngọn núi.
Về nơi sơn nữ bắt chồng
Men theo quốc lộ 26, từ Khánh Hòa đi Đắk Lắk chúng tôi ì ạch trên “con ngựa sắt” leo đèo Phượng Hoàng. Hai bên đường, ngoài sự hùng vĩ của cảnh quan tự nhiên, thứ ớn lạnh nhất mà du khách có thể cảm nhận được là những cái am “cô hồn” ven đường. Những con đường quanh co, các khúc cua tuyệt đẹp làm cho đèo Phượng Hoàng như một “cái bẫy” đối với cánh tài xế. Ở cung đường này, hàng năm có cả chục người chết vì tai nạn. Các am thờ vốn đã lạnh lẽo hợp với cảnh núi rừng lúc sáng sớm tạo nên sự rùng rợn khó tả. Mỗi khi lưu thông qua, các tài xế xe khách, xe tải, người đi phượt… phần lớn dừng lại thắp hương, mong những linh hồn đang lẩn quẩn ở đâu đây phù hộ.
Vượt 12 km với bao nỗi lo âu dành cho những người lần đầu đặt chân đến khu vực này, chúng tôi cũng đến được nơi mình cần tìm. Xa xa, những nóc nhà sàn lợp bằng cỏ tranh của một buôn làng nằm phía trước tỏa khói bếp bay chập chờn của bữa chiều. Đó là buôn Ethi của người Ê Đê, nơi đây có tục lệ người phụ nữ đến tuổi lập gia đình đi bắt chồng từ nhiều đời nay.
Trong các thung lũng được chở che bởi núi rừng. Già làng Y Len với thân hình khỏe khoắn như cây đại thụ biểu tượng của vùng đất hoang dại này. Thấy chúng tôi tò mò về sự tích đèo Phượng Hoàng, già Y Len giải thích: Phượng Hoàng là tên của loài chim lớn hung dữ họ Anh Vũ. Nhưng, đèo Phượng Hoàng nhìn từ trên cao xuống, sẽ giống như con vật thần linh sẵn sàng bay lên giữ hồn thiêng của Yang (vị thần lớn nhất theo quan niệm tâm linh của người Ê Đê).
Trong câu chuyện, Y Len còn giới thiệu những họa tiết hình bầu vú của phụ nữ trưởng thành trên bục cầu thang song song bắc lên nhà. Đó là bầu sữa mẹ. Dân trong buôn ai cũng dựng nhà theo kiểu này để ghi công ơn mẹ nuôi mình thành người. Người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ. Cầu thang cái là cho phụ nữ đi, cầu thang đực nhỏ hơn, dành cho phái nam. “Họ bắt mình về làm chồng thì họ phải có quyền chứ”, Y Len cười vang.
Ngỡ ngàng trước câu nói của già làng Y Len và cũng tò mò về tục bắt chồng của người Ê Đê ở chân đèo Phượng Hoàng, chúng tôi gặng hỏi. Ama Kin (53 tuổi, gần nhà Y Len) bảo, chỉ khách mới thấy lạ thôi. Ở buôn này, khi nam nữ đến độ tuổi dựng vợ gả chồng thì cô gái luôn chủ động về thưa cha mẹ, rồi nhờ người mai mối qua nhà chàng trai để bắt. Sính lễ bắt chồng gồm những vật nuôi như trâu, bò, heo, rồi vải vóc, tiền… Mọi chuyện tùy thuộc vào mức độ khó dễ và kinh tế của gia đình chàng trai khi đưa ra lời thách.
|
Đến tuổi 45 năm, H’Moan vẫn ở một mình vì không có tiền để bắt chồng. |
Tâm sự sơn nữ không tiền… bắt chồng
Chúng tôi tìm về buôn Duy cách đó 8 km vẫn còn duy trì tục bắt chồng. Buôn Duy nổi tiếng nhất cung đèo Phượng Hoàng bởi các sơn nữ thôn này có nhan sắc vượt trội, các buôn khác khó sánh kịp. Tuy nhiên, các thôn nữ dù có đẹp đến độ nào cũng phải bỏ tiền ra nếu muốn có chồng.
Trong căn nhà sàn nhỏ, anh A Nhơn (43 tuổi) nhớ lại lúc “bị” vợ bắt hết sức chi tiết. A Nhơn kể: “Hồi trẻ vợ mình đẹp lắm. Hai đứa rất thương nhau, cha mẹ bên nhà vợ cũng khó khăn nên nhà mình không muốn thách cưới. Vậy mà, cái tục lệ ở đây nó thế, không làm theo là có lỗi với thần linh, với đất trời. Vợ mình chỉ tốn hai con heo thôi, mỗi con nặng hơn một tạ. Còn rượu thì không nhớ đâu, chỉ biết là nhiều lắm. Hai con heo đó bố mẹ vợ trao cho bố mẹ của mình như là trả công nuôi dưỡng. Làm đám cưới xong thì mình về ở rể nhà vợ, ở đến bây giờ”.
Ở các buôn người Ê Đê sống trên đèo Phượng Hoàng, trai gái quen biết nhau qua những lúc làng có lễ hội cúng thần linh, lễ kết thúc mùa màng, hay những ngày đi chơi chợ tết, đám ma, đám cưới, lúc đi nương... Khi hai đứa tìm hiểu đã “ưng cái bụng” thì cô gái bảo chàng trai về nhà hỏi gia đình yêu cầu quà thách cưới gồm bao nhiêu con heo, bò, gà và tiền cưới… để nhà gái định liệu. Ở đây, cũng lắm khi xảy ra trường hợp, bên nhà trai đòi hỏi cao quá, nhà gái không đáp ứng được nên ngậm ngùi bỏ nhau.
H’mila, thôn nữ được người trong buôn Tun suy tôn là hoa khôi ở vùng này. H’mila vừa bước sang tuổi 20, làn da trắng ngần, dáng mảnh khảnh, thon thả như thiếu nữ thị thành. Sau vài phút ngập ngừng, bẽn lẽn, cô nhoẻn miệng cười nói: “Chồng em là Ky Men lớn hơn em một tuổi. Hai đứa quen nhau được hơn một năm rồi em qua bắt. Em bắt anh ấy phải tốn ba con bò, hai con lợn và 10 con gà cùng 15 triệu đồng tiền mặt với nhiều ché rượu. Để có tiền bắt chồng, em phải đi làm thuê trên nương cho nhà khác mấy năm trời. Lấy xong, ba mẹ em còn cất một ngôi nhà bên cạnh cho vợ chồng ở riêng”.
Ngồi nghe chúng tôi trò chuyện với H’mila, Y Ten, cô thôn nữ nhà gần đó cũng không ngần ngại như lúc đầu, mà mạnh dạn kể: “Hơn một năm trước, em bắt chồng về ở phải mất một con bò mộng. Việc bắt chồng của em tốn ít của bởi gia đình chồng cũng thấy nhà gái khó khăn”.
Khi được hỏi về cuộc sống của những gia đình trẻ, cô gái sốt sắng: “Nó (chồng - PV) siêng làm, không bê tha nên em cũng mừng”.
Lễ thách cưới, bắt chồng phần lớn giúp cộng đồng người Ê Đê sinh sống trên đèo Phượng Hoàng có đôi có cặp, hạnh phúc đến lúc xuôi tay. Nhưng cũng chính hủ tục này cũng đã làm tan bao giấc mơ uyên ương của những cô gái có gia cảnh khó khăn, không có tiền bắt chồng. Để có được tấm chồng, nhiều sơn nữ phải vay mượn, kí giấy nợ gia đình chồng rồi kiếm tiền trả dần dần đến khi hết nợ.
|
H’Ban (phải) làm thuê, nuôi heo để tích góp tiền đi bắt chồng. |
Chiều muộn, chúng tôi đang chuẩn bị đổ đèo Phượng Hoàng để về TP Nha Trang, Khánh Hòa. Bất chợt trời tối sầm, cơn mưa rừng ập đến nhanh chóng. Tấp vội tránh mưa dưới hiên nhà sàn của hai chị em nhà H’Bun (22 tuổi) và H’Ban (18 tuổi). Họ đang giã lõi cây chuối rừng để nấu cho lợn.
Trao đổi bao thứ chuyện, đôi chị em tươi tắn trả lời, nhưng khi chúng tôi đề cập đến tập tục bắt chồng thì H’Bun nói như khóc. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, cha bệnh tật và gần như mất sức lao động. Vì vậy, bữa no bữa đói hằng ngày của gia đình phụ thuộc vào số tiền làm thuê, làm mướn của hai chị em. Ngày bắt chồng, không đủ số bò, heo và tiền mặt…, H’Bun phải vay lại gia đình chồng 4 chỉ vàng và một con bò. Gần hai năm qua, cô làm thuê làm mướn khắp nơi để gom đủ vật phẩm, tiền trả cho gia đình chồng.
Còn H’Ban vì mặc cảm gia cảnh, dù đến tuổi cập kê nhưng cô vẫn chưa dám lập gia đình. “Nếu hai năm nữa em tích góp không đủ để mua một con bò, hai con heo và 10 triệu đồng tiền dạm hỏi đi bắt chồng thì em xuống miền xuôi để tìm trai người Kinh cho đỡ tốn kém”, H’Ban cười nói.
Lễ thách cưới, bắt chồng phần lớn giúp cộng đồng người Ê Đê sinh sống trên đèo Phượng Hoàng có đôi có cặp, hạnh phúc đến lúc xuôi tay. Nhưng cũng chính hủ tục này cũng đã làm tan bao giấc mơ uyên ương của những cô gái có gia cảnh khó khăn, không có tiền bắt chồng. Để có được tấm chồng, nhiều sơn nữ phải vay mượn, kí giấy nợ gia đình chồng rồi kiếm tiền trả dần dần đến khi hết nợ.