Không chỉ hai lần đi sứ Trung Hoa, được vua Càn Long mến tài cho người vẽ tặng chân dung, Hoàng giáp Nguyễn Tông Quai còn nổi tiếng trung nghĩa "niềm đan một tấm".
Tứ tài Trường An
Nguyễn Tông Quai hiệu là Thư Hiên quê gốc ở xóm Dinh làng Sâm, xã Phúc Khê, huyện Ngự Thiên, phủ Thái Bình, nay thuộc xã Hòa Tiến (Hưng Hà, Thái Bình). Lúc nhỏ, theo cha mẹ lên sống ở Thăng Long, từng là Giám sinh trường Giám và theo học Thám hoa Đình nguyên Vũ Thạnh.
Nhà sử học Phan Huy Chú trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” nhận định rằng: “Những người học giỏi, những bề tôi hiền thì phủ Tiên Hưng đứng đầu cả xứ miền dưới. Bảng nhãn họ Lê ở làng Diên Hà học vấn sâu rộng, nổi tiếng ở Bắc Hà.
Trạng nguyên họ Phạm (Đôn Lễ) ở Hải Triều văn hay có tiếng trong khi mới mở nước. Hội nguyên họ Nguyễn (Tông Quai) ở Phúc Khê thơ hay nổi tiếng ở đời gần đây”. Cả ba đại khoa trên thuở nhỏ đều được dân gian gọi là “thần đồng”.
Phạm Đôn Lễ, khi đến tuổi đi học, học chăm chỉ và rất thông minh. Một lần thày giáo bảo: “Con học rộng, biết nhiều, biết trọng đạo thầy trò, sau này hẳn con sẽ làm nên việc lớn”. Đôn Lễ chắp tay lạy thầy, rồi nói: “Con không quên ơn công nuôi dậy của thầy, con nguyện chăm chỉ học hành”. Lớn lên Phạm Đôn Lễ đi thi, cả ba lần đều đỗ đầu. Ông là người đỗ Tam nguyên sớm nhất ở nước ta.
Lê Quý Đôn hai tuổi đã biết hai chữ “hữu, vô”, bốn tuổi biết đọc thơ Đường, năm tuổi đọc được Kinh thi, liếc mắt đọc được 10 hàng, có sức học 5 xe sách, năm lên 7 tuổi đã học sử, 10 tuổi đã làm được “luận biến thư tịch” (những thứ liên quan tới sử), 11 tuổi đọc Tống sử, Nguyên sử, mỗi ngày đọc được 80 - 90 trang, 14 tuổi học hết sử tịch, đọc một lần nhớ suốt đời. Ông là người “xem sử quên ăn, đọc kinh không biết mỏi, mỗi ngày thuộc hàng tám, chín mươi trang”.
Với Nguyễn Tông Quai, năm lên 8 tuổi đi học thầy đồ làng, ông học rất thông minh đến nỗi thầy phải thốt lên: “Thằng bé này khác thường, chưa dễ làm thầy của nó”. Khi cha ông chuyển lên kinh đô trông coi chùa Diên Hựu, ông được đưa vào học trường Quốc Tử Giám, được Thám hoa Vũ Thạnh trực tiếp dìu dắt.
Thầy Vũ Thạnh đã dậy rất nhiều học trò giỏi nhưng đến khi dậy Nguyễn Tông Quai ông vẫn sửng sốt. Có lần ông ra bài tập, khi đọc đến bài của Nguyễn Tông Quai, thầy Thạnh khen: “Anh chàng này về sau tất nổi danh về thơ”.
Quả thật, sau này Nguyễn Tông Quai cùng với Đoàn Trác Luân (anh trai nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân được người đời xưng tặng là “Trường An tứ hổ” hay “Trường An tứ tài”.
Sau khi thi đỗ, các ông đã đem tài năng ra phục vụ đất nước. Phạm Đôn Lễ làm đến Tả thị lang bộ Hộ, khi đi sứ Trung Hoa ông đã học được nghề làm chiếu, khi về nước truyền nghề cho dân xã, khi mất được dân tôn làm tổ nghề, lập đền thờ.
Lê Quý Đôn làm đến Thượng thư bộ Công, được cử đi sứ, ông là sứ thần đã “lấy văn chương làm tăng thế nước”. Nguyễn Tông Quai giữ chức Tả thị lang, có khi cai quản cả lục bộ.
Theo tài liệu đăng khoa lục, khoa thi năm Tân Sửu (1721) đời vua Lê Dụ Tông, Nguyễn Tông Quai tham gia Hội nguyên đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Bài làm được chấm đỗ nhất giáp nhưng xét kỹ bài thi có từ phạm húy nên bị giáng hàng nhị giáp.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1721 có đoạn khắc rằng: “học trò mặc áo trắng đến đua tài gần 3.000 người, tuyển chọn ghi tên ở bảng mực nhạt được 25 người, phép tuyển chọn thật hết mức tinh vi chặt chẽ! Sang tháng sau vào Điện thí.
Đề sách vấn hỏi về đạo trị nước. Sáng hôm sau, quan đọc quyển nâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp. Mùa Xuân năm sau cử hành ân điển. Ban áo mũ phẩm phục để được vẻ vang, cho dự yến Quỳnh thưởng hoa bạc.
Tỏ lòng ưu ái ban cho bạc ròng, lại hậu đãi làm cho nhà cửa để có chốn chở che, theo thứ bậc cao thấp mà đặt định tước vị, ân điển chất chồng. Lại sai khắc đá dựng ở nhà Quốc học.
Văn chương là của chung, đường khoa mục bằng phẳng, đó là công cụ để quốc gia kén chọn hiền tài, thật hợp ý đời xưa. Các đời thái bình xưa kia có tiếng là được nhiều người tài giỏi giúp nên nền trí trị đại để đều xuất thân từ chốn trường ốc.
Gần đây tùy thời đặt ra phép tắc, dùng văn để kén chọn học trò, mới bắt đầu đặt khoa thi Tiến sĩ. Những kẻ anh tài đạt tới bến bờ vinh quang, đều biết đem tài học ra làm vẻ vang cho thánh triều, làm cho thế đạo thịnh sáng. Vì thế cho nên khoa mục đều được các đời sùng chuộng…”.
Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Tông Quai được bổ làm quan ở Viện hàn lâm, lần lượt trải chức Thừa chính sứ Kinh Bắc và Đốc đồng Tuyên Quang, rồi lại bổ dụng ngay vào những hoạt động bang giao.
Năm 1734, ông đón sứ Thanh sang sắc phong. Năm 1742, là Phó sứ cùng Chánh sứ Nguyễn Kiều sang sứ Thanh, chuyến đi này kéo dài đến 3 năm. Năm 1747 ông lại được cử làm Chánh sứ sang Thanh.
Có giai thoại kể về việc ông ứng khẩu tài trí với các quan bang giao lúc giờ như thế này: Khi thấy ông đi sứ lần thứ hai, sứ thần Trung Hoa hỏi: An Nam hết người tài rồi sao mà lại cử ông đi lần này.
Nguyễn Tông Quai thản nhiên đáp: “Ở nước tôi, mọi người coi đi sứ là việc nặng nhọc, vất vả nên mở hai cuộc thi thơ nếu ai thấp điểm nhất thì người đó được cử đi sứ. Và cả hai lần thi, tôi đều xếp hạng bét nên mới phải đi thay”. Hai lần đi sứ Bắc quốc, với tài đối đáp lanh lợi, khôn khéo, Nguyễn Tông Quai được vua Càn Long nhà Thanh mến tài, cho người vẽ tranh tặng, các nhân sĩ Trung Hoa, Triều Tiên đều rất nể trọng.
Sự nghiệp chính trị của Nguyễn Tông Quai tương đối dài nhưng lắm gian nan. Năm 1750, sau chuyến đi sứ trở về nước, ông được làm Tả thị lang bộ Hộ. Cũng vì ông vốn tính ngay thẳng, ghét sự tà vạy, không kiêng tránh, nể nang nên không được lòng một số quan đồng triều. Một lần, ông bị Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc mượn chuyện đàn hặc, mà bị giáng xuống làm Hàn lâm thị độc, rồi sau đó bị truất bỏ.
Lừng tiếng thơ hay khắp cõi
Sinh thời, Nguyễn Tông Quai viết tương đối nhiều, ngoài thơ Nôm giáo huấn (Ngũ luân tự) và thơ vịnh sử (Vịnh sử thi quyển), thì hai tác phẩm đi sứ bằng Nôm “Sứ trình tân truyện” và Hán “Sứ hoa tùng vịnh” hiện vẫn còn và đều rất sáng giá.
Theo Viện nghiên cứu Hán Nôm, “Sứ trình tân truyện” có nghĩa là truyện mới về lộ trình đi sứ.
Tác phẩm có tính chất ký sự này gồm 670 câu thơ Nôm lục bát, thuật lại cuộc hành đi sứ lần thứ nhất 1742 - 1745, ghi lại tâm tư, cảm xúc, ngâm vịnh về danh lam thắng tích, sơn kỳ thủy tú của sứ giả nhà thơ trên dặm dài từ Thăng Long đến Yên Kinh. Giữa mạch lục bát, xen vào 8 bài thơ Nôm Đường luật, được nhiều học giả xưa và nay coi là một chùm thơ đẹp.
“Sứ trình tân truyện” là tập bút ký lục bát Nôm sớm nhất về đề tài đi sứ. Trước tác phẩm này, sử sách có ghi Đỗ Cận thế kỷ 15 có Kim Lăng ký bằng Nôm, Hoàng Sĩ Khải thế kỷ 16 có “Sứ Bắc quốc ngữ thi tập”, song cả hai đều mất. Thể thơ lục bát cũng đã được dùng nhiều từ đầu thế kỷ 16, trong đó có những bài hay như: Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn của Đào Duy Từ, nhưng chưa hề có lục bát Nôm viết về đề tài đi sứ.
Nguyễn Tông Quai là nhà thơ đầu tiên dùng lục bát Nôm viết về đề tài đi sứ. Hơn nữa đề tài mới được thực hiện ở một thể loại cũng là mới, thể ký bằng thơ quốc âm, tuy rằng tên tác phẩm là tân truyện.
Đây rõ ràng là tập bút ký bằng thơ Nôm, ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy trên lộ trình muôn dặm từ Thăng Long đến Yên Kinh. Tuy nhiên, đề tài và thể loại mới mẻ này, chỉ được khẳng định khi “Sứ trình tân truyện” thực sự là một thể nghiệm thành công.
Toàn bộ tác phẩm, như đã được nhiều học giả nhận xét, là một áng thơ rất đẹp, tứ thơ văn nhã, tài hoa, âm điệu hài hòa, réo rắt, hành văn lưu loát, trôi chảy, tiếp lời liền mạch “lừng tiếng thơ hay khắp cõi” (Ngô Thì Sĩ).
Phả tích trong dòng họ Tiến sĩ Nguyễn Tông Quai vẫn còn lưu lại sự kỳ diệu trong cuộc đời của vị Hoàng giáp làm thay đổi sự quy luật chung trước đó. Phả tích ghi rằng: Trước đời, Nguyễn Tông Quai (kể cả đời người cha sinh ông) đều độc đinh nghĩa là kế tục nhau chỉ sinh ra một người con trai.
Nhưng đến đời Nguyễn Tông Quai, ông có đến 7 người con trai và từ đó, dòng họ của ông phá được quy luật độc đinh. Con cháu sinh cành, nảy quả. Và nhiều người trong gia tộc đã chú trọng hơn đến con đường học vấn.
Sau khi rời quan trường, Nguyễn Tông Quai về quê mở trường dạy học, đào tạo anh tài, học trò giỏi có Lê Quý Đôn, Đoàn Nguyễn Thục. Năm 1767 ông mất tại quê nhà. Cuộc đời của Nguyễn Tông Quai được lịch sử đúc rút gói gọn trong bốn chữ “Niềm đan một tấm” (một tấm lòng son).
"Trên 30 năm làm quan, trải 5 đời vua, 3 đời chúa, Nguyễn Tông Quai nổi tiếng là nhà khoa bảng có tiết tháo, tâm huyết, không a phụ bọn quyền.
Nguyễn Án nhận xét: "Tính ông ngay thẳng mà ghét sự tà khúc, không chịu kiêng tránh gì cả". Hồ Sĩ Đống tôn vinh Nguyễn Tông Quai rằng: "Tiên sinh giữ đạo chính, ghét kẻ tà, tuy bị kẻ hằn thù vu cáo mà bị tội, song lúc tiên sinh trở về vườn thì danh vọng lại càng trong". Học trò của ông như Lê Quý Đôn, Đoàn Nguyễn Thục... đều là danh sĩ nổi tiếng đương thời".
Theo Giáo dục và Thời đại