Nhằm giúp đỡ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống lại sự xâm lược của Đế quốc Mỹ, từ năm 1964, Liên Xô đã bắt đầu viện trợ súng chống tăng RPG-2 nhằm giúp cho quân Giải phóng miền Nam đối phó lại lực lượng tăng – thiết giáp của Mỹ - VNCH đang chiếm ưu thế lớn.
Súng chống tăng RPG-2 (tiếng Nga là ручной противотанковый гранатомёт, dịch ra là "súng phóng lựu chống tăng phản lực") được Liên Xô thiết kế từ năm 1947 cho nhiệm vụ tấn công tiêu diệt xe tăng, xe bọc thép, chống lô cốt, bộ binh địch... Theo một số đánh giá thì khẩu RPG-2 được thiết kế trên cơ sở nghiên cứu khẩu Panzerfaust 44 của phát xít Đức mà Hồng quân Liên Xô thu giữ được.
Khi được viện trợ sang Việt Nam, RPG-2 được quân đội ta định danh lại gọi là súng chống tăng B40. Thứ vũ khí sau này đã gây ra nỗi khiếp sợ kinh hoàng với lực lượng tăng – thiết giáp Mỹ-VNCH ở miền Nam Việt Nam trong nhiều năm sau đó.
|
Hiện súng chống tăng B40 vẫn được trang bị cho một số đơn vị địa phương.
|
Súng chống tăng B40 có kết cấu rất đơn giản, nó gồm một ống mỏng nhẹ dài 1,2m, bên trong mài nhẵn đường kính 40mm, nặng 2,83kg. Phía trên ống có thước ngắm và đầu ruồi gập lại được, đỡ vướng khi vận chuyển, dựng lên khí ngắm bắn. Thước ngắm chỉ có 3 mức, xa nhất 150 mét, các mức thước ngắm là các thanh ngang đặt cố định như chiếc thang.
Về đạn của B40 được kết cấu 2 phần gồm: đầu đạn và liều phóng. Trong đó, đầu đạn B40 là kiểu liều nổ lõm góc mở rộng hội tụ sóng xung kích vào tiêu điểm ở tâm trục đầu đạn. Người ta lót một tấm kim loại nặng ở mặt lõm, tấm này gọi là tấm tích năng lượng, nó tăng tốc độ đến vài km/s xuyên qua giáp, ở B40 làm bằng đồng, sức xuyên 180 mm thép cán. Hiên nay, kiểu đầu đạn này ít được dùng, nhưng thời điểm nó ra đời và sử dụng trên chiến trường Việt Nam thì được đánh giá là rất hiệu quả, sức xuyên ít giảm theo góc chạm, tăng xác suất diệt mục tiêu.
Loại đạn của B40 được định danh là PG-2 nặng 1,84kg, dài 67cm, đường kính lớn nhất 80mm, tốc độ bay tối đa 84m/s, tầm bắn hiệu quả 150m.
Trước khi lắp đạn vào súng, xạ thủ phải lắp liều phóng vào đạn. Sau khi lắp liều vào đầu đạn, vuốt các cánh đàn hồi cho cuộn quanh ống đuôi, nhét đạn vào súng, quay cho đúng vị trí đinh khớp, đến đây đạn nằm chặt trong súng. Khi quay đầu đạn trong nòng phải quay theo chiều kim đồng hồ, nếu ngược lại các cánh đuôi giãn ra rất chặt.
Đầu đạn được kích nổ bằng ngòi chạm nổ quán tính, ngòi đặt ở phần cổ đạn. Khi đạn đập vào mục tiêu dừng lại, thì khối nặng của ngòi lao vào hạt nổ. Với sức xuyên 180mm thép cán, xe thiết giáp M113 mới nhất của Mỹ khi đó, hay kể cả xe tăng M48 khó lòng chống đỡ. Và thực vậy, các chiến dịch lớn được quân giải phóng miền Nam thực hiện sau khi nhận súng chống tăng B40 đã khiến cho thiết giáp quân xâm lược khiếp đảm.
Tuy nhiên, súng chống tăng B40 không phải là không có nhược điểm. Theo đó, dùng B40 khiến xạ thủ dễ bị lộ vị trí bắn do cự ly bắn quá gần. Đến năm 1971, Liên Xô tiếp tục viện trợ cho bộ đội ta súng chống tăng RPG-7 (Việt Nam định danh là B41). Súng chống tăng B41 của Liên Xô đã khắc phục được các nhược điểm trên.
|
Lực lượng dự bị động viên huấn luyện bắn B40.
|
Dẫu vậy, với số lượng lớn B40 đã được viện trợ và vẫn đang phục vụ, ta vẫn tiếp tục duy trì sử dụng và tiến hành công tác nghiên cứu cải tiến dựa theo mẫu B41 của Liên Xô và thiết kế sao chép Type 69 của Trung Quốc.
Theo cuốn Lịch sử Kĩ thuật Quân sự Việt Nam (giản yếu), nòng súng, thước ngắm được sản xuất giống như của Liên Xô, các chi tiết bên ngoài súng được làm giống như B41 của Trung Quốc.
Súng chống tăng B40 cải tiến được thiết kế thêm chân súng có 2 chạc. Súng chủ yếu dùng để đánh bại các loại xe tăng, xe bọc thép nên thước ngắm chỉ cần vạch ứng với cự ly 50-100mm. Súng B40 được đánh giá là đã phát huy được hiệu quả đáng kể trên chiến trường. Cho đến ngày nay, đã hơn nửa thế kỷ sử dụng nhưng B40 vẫn còn được duy trì ở một số đơn vị trong quân đội ta.
Hoàng Lê