Một ngôi làng nhỏ nhưng chứa đựng không ít chuyện lạ lùng, ví như tục lệ con gái lấy chồng phải lát gạch đường ngõ xóm, đặt tên con theo tên các loài động thực vật.
Ba anh em Trâu, Bò, Bê
Ở làng Già, xã Lê Lợi (huyện Gia Lộc, Hải Dương), rất nhiều người sở hữu tên nghe rất… động vật. Lạ kỳ nhất là ba quý tử của cụ Khóa, một nho sĩ uyên bác. Người con cả tên Phạm Văn Trâu, tiếp đến là Phạm Văn Bò và Phạm Văn Bê.
So với Bò, anh cả Trâu có phần tự tin hơn khi xưng danh với người làng ngoài. Bởi nếu không viết thành chữ, chỉ giới thiệu bằng mồm (giọng người miền Bắc khó phân biệt “tr”, “ch”) thì ai cũng tưởng ông là “Châu” trong từ “minh châu” hoặc “châu báu”. Rất đẹp và mĩ miều. Riêng em út Bê thì qua đời khi còn nhỏ do mắc bệnh hiểm nghèo.
|
Bà Xòe cười tươi khi kể chuyện về người chồng Phạm Văn Bò |
Những chuyện bi hài nhất được dồn vào cái tên Phạm Văn Bò. Hồi nhỏ, Bò đi học chữ ở trường trung tâm xã. Có lần, thầy giáo gọi lên bảng kiểm tra bài cũ, Bò chưa thuộc nên ú ớ gãi đầu. Đám bạn ngồi phía dưới chỉ biết chúi mặt xuống bàn mà phồng mồm cười.
Lớp học râm ran câu đùa rất độc: “Lơ ngơ như Bò”. Thấy thế, Bò ngượng tím mặt. Mặc cho thầy giáo lườm nguýt, gõ thước xuống bàn đèn đẹt răn đe, cơn cười hỉ hả của lũ trò vẫn cứ đẩy âm lượng to mãi, dài mãi như bị ai đó cù vào nách liên hồi.
Lớn lên, chàng trai Phạm Văn Bò nhập ngũ. Trong giờ tập trung, mỗi khi cấp trên chỉ đạo: “Đồng chí Bò đi địu gạo tiếp tế”, “Đồng chí Bò đi vào rừng gùi củi”, cả trung đội lại cố bóp mồm, bịt miệng mà tiếng cười vẫn phá ra tung trời.
Phạm Văn Bò chưa bao giờ than trách những tiếng cười của đồng đội. Bởi nhiều lúc ngẫm ngợi, Bò cũng thấy cái tên của mình kỳ quặc đến… buồn cười.
|
Một trong bốn cổng dẫn vào làng Già. |
Rời quân ngũ về quê, Bò đem lòng yêu cô gái Mai Thị Xòe (người làng Chằm, xã Phương Hưng). Để tránh một trận cười như pháo rang trong ngày ra mắt nhạc phụ, nhạc mẫu tương lai, Bò cấm người yêu không được giới thiệu tên thực của mình mà nói đại một cái tên tào lao là Phạm Văn Tảo. Chẳng ngờ sau này cái tên bịa đặt ấy theo ông đến cuối đời.
Ở làng Già, đâu phải chỉ ba anh em ông Bò mới mang tên một loài vật. Cách đó mấy bước chân cũng có cụ ông Đỗ Văn Báo, Phan Văn Nghê và cụ bà Phạm Thị Hến đấy thôi.
Nếu tập hợp số người có tên trùng với 12 con giáp thì không thiếu loài vật nào. Từ cụ Tý, cụ Sửu, cụ Dần, cụ Mão, cụ Thìn, cụ Tỵ, cụ Ngọ, cụ Mùi ... đến cụ Thân, cụ Tuất, cụ Hợi.
Không khó để lý giải về nguồn gốc của những cái tên kỳ lạ kia, khi mà cuộc sống no ấm của gần 600 nhân khẩu làng Già gần như dựa cả vào ruộng vườn, ô chuồng, ao cá.
Trẻ nhỏ từ lúc o oe tiếng khóc đầu đời đã biết đua thanh với chó sủa, lợn kêu, gà gáy; lớn lên trên lưng bò; to cao nhờ rau ruộng, trái vườn.
|
Khung cảnh yên bình ở làng Già. |
Chẳng có lý do gì để con người không yêu, không quý cái thế giới tự nhiên đã cưu mang, bao bọc mình (?). Và, càng thú vị hơn khi tình yêu thiên nhiên ấy được thổi vào những cái tên nghe rất động vật, rất thực vật.
Từ cách đặt tên con theo tên các loài cây trên rừng như bà Phạm Thị Sim, Phạm Thị Mơ, Đỗ Thị Mận, ông Vũ Văn Mây đến các loài cây làm thuốc hoặc rau gia vị như bà Phạm Thị Riềng, ông Phạm Văn Hành, Phạm Văn Răm, Phạm Văn Hẹ…
Thậm chí, có cả những cái tên được đặt theo giới tính con vật, ví dụ như bà Phạm Thị Mái, ông Phan Văn Trống.
Trưởng thôn Già Phạm Văn Tài bảo rằng, ngoài tình yêu thiên nhiên, thói quen đặt tên con cái trùng với các loài động, thực vật xuất phát từ tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” từ xửa từ xưa.
Người ta tin rằng mỗi nhành cây, ngọn cỏ, muông thú đều có thần linh che chở mới trường tồn qua bao vận đổi sao dời. Và, khi tên người hòa nhập với thế giới tự nhiên thì sẽ đời đời bình yên. Cũng giống như tên gọi làng Già, thể hiện khát vọng bách niên giai lão.
Lịch sử xã Lê Lợi cũng đã từng hoán đổi rất nhiều tên gọi khác nhau. Đầu tiên là Lạc Thị rồi đến Lạc Hồng, Lê Lợi. Thời cải cách ruộng đất, xã đổi tên là Gia Định và đến năm 1958 (cuối thời kỳ sửa sai) lại quay về tên xã Lê Lợi.
Những con đường gái tơ
Thời buổi bê tông hóa, nhựa đường hóa giao thông nông thôn phục vụ “xe hổ vồ”, xe xúc ủi lăn bánh, hiếm có nơi đâu còn giữ được những con đường lát gạch nghiêng rêu phong như làng Già.
Hiểu được gốc tích của những con đường ấy mới thấy chị em phụ nữ cũng hăng say với trách nhiệm xã hội lắm, chứ chẳng phải nhăm nhăm “về nhà tận tụy chồng con một lòng” (ca dao Việt Nam).
Lệ làng Già quy định, con gái trước khi lấy chồng phải góp ít nhất 500 viên gạch để lát đường làng.
Hỏi vì sao lại thế? Cụ Phạm Văn Mẫn (88 tuổi), người được mệnh danh là pho sử sống của làng lý giải rất giản đơn: “Đứa trẻ uống nước ở đâu mà xinh gái? Ăn thóc gạo đồng nào mà khôn lớn? Noi gương, học hỏi ai mà trưởng thành? Tất cả từ làng ta mà ra chứ đâu.
Thế nên, trước khi xuất giá tòng phu thì cô gái phải trả ơn, báo hiếu với quê hương, xóm làng”.
|
Cụ Phạm Văn Mẫn - “Pho sử sống” của làng Già. |
Theo năm tháng, lớp gạch nung màu đỏ sậm đầm đẫm mồ hôi mặn chát của hàng trăm, hàng ngàn cô dâu tương lai cứ thế vươn dài mở rộng, đè bẹp những con đường đất bụi mù trời mỗi lần gió thổi, nhão nhoét khi hạt mưa rơi.
Để đến ngày hôm nay, chúng được người thôn quê gọi là những “con đường tình yêu”, “con đường hạnh phúc” hay “con đường gái tơ”.
Trách nhiệm của một cô gái đến tuổi cập kê là thế. Còn nam giới thì sao? Cụ Mẫn bảo, muốn rước được gái làng Già về, gia đình nhà trai phải chi trả toàn bộ chi phí tổ chức hôn lễ kèm một bọc tiền thách cưới cho nhà gái.
Thời đại thui chột tư duy cổ hủ, trai gái ưng bụng nhau là cưới, nhưng “sợi tơ tình” giữa hai dòng họ Phạm và Đỗ ở làng Già đã bị cắt đứt suốt mấy trăm năm năm nay.
Câu chuyện oái oăm và lạ lùng ấy có gốc tích hẳn hoi. Chuyện kể rằng, người đầu tiên khai phá đất làng Già là vợ chồng cụ Phạm Công Nhạc (cách nay 11 đời).
Cụ Nhạc sinh được hai người con trai là Phạm Công Thuần và Phạm Công Thắng. Trớ trêu thay, cả hai anh em cùng yêu say đắm một cô gái nết na thùy mị.
Khi người cha tỏ ý ủng hộ trưởng nam Phạm Công Thuần lấy cô gái làm vợ, Phạm Công Thắng đùng đùng nổi giận, rũ bỏ dòng họ Phạm, tự đặt tên mình là Đỗ Phúc Thắng và khai sinh dòng họ mới.
Hồi đình làng Già chưa bị giặc Pháp phá sập, văn bia trước cổng đình ghi rõ dòng chữ “Đỗ - Phạm đồng tông” (tức họ Đỗ, họ Phạm cùng một tổ tông). Thế nên trai gái hai dòng họ không được tơ vương tình ái.
Lê Lợi (1385-1433) tức Lê Thái Tổ, là vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn (Thanh Hóa) đánh đổ ách cai trị của nhà Minh trên đất nước ta suốt hai thập kỷ (1407-1427). Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, khai sáng triều Hậu Lê (1428-1789), triều đại quân chủ phong kiến dài nhất trong lịch sử nước ta.
Trong 6 năm làm vua, Lê Lợi đã định ra quan chế, xây dựng triều chính quy củ, thực hiện chính sách ruộng đất, thu thập sách vở, chế tác lễ nhạc, mở mang trường học, tổ chức khoa cử chọn lựa nhân tài, mở mang bờ cõi... Vì thế, trong dân gian có lời ca ngợi truyền tụng rằng: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”.
Theo VTC New