Lập nhiều chiến công, tài trí hơn người, Lê Văn Duyệt trở thành vị khai quốc công thần danh vọng bậc nhất triều vua Gia Long. Tuy nhiên, xung quanh nhân vật này còn nhiều góc khuất ít người biết rõ.
Thân khuyết tật vẫn mang chí lớn
Lê Văn Duyệt sinh ra ở tỉnh Định Tường nhưng tổ tiên vốn là người Quảng Ngãi. Là con cả trong một gia đình có 4 anh em nhưng Duyệt lại không được lành lặn. Sách
Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam cho biết: “Khi mới sinh ra Duyệt, người cha ngắm nhìn con và cảm thấy có phần không vui. Duyệt trông khác hẳn những đứa trẻ khác, hình thể nhỏ nhắn và không có ngọc hành. Tuy nhiên Duyệt vẫn là một đứa trẻ khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn”.
|
Tượng đồng Lê Văn Duyệt. Ảnh: Wikipedia. |
Tuổi thơ, Lê Văn Duyệt ít chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, chọi gà và tụ tập trẻ con trong xóm chơi trò đánh trận giả. Về phần ông Lê Toại (cha Duyệt), dù thấy con lớn lên bình thường song ông vẫn khổ tâm về sự không lành lặn của Duyệt.
Bấy giờ ở Định Tường có một thầy Táu nổi tiếng xem tướng giỏi. Ông Toại liền đưa Duyệt đến ra mắt thầy. Sau một hồi ngắm nhìn Duyệt, thầy cười khà khà rồi bảo: “Ông chẳng phải lo làm gì, cơ thể nó tuy bất bình thường nhưng nó vẫn có đủ vợ lẽ nàng hầu. Sau này nó sẽ vinh hiển, ông sẽ được nhờ vào nó”. Quả nhiên, sau này Lê Văn Duyệt đi theo vua Gia Long, lập nhiều chiến công nên vua đã ban cho một cung nữ làm nàng hầu rồi lại cho lấy con người em trai làm con nối dõi cho Duyệt.
Nghe thầy tướng nói, ông Toại yên tâm hơn và cho Duyệt học hành đầy đủ sách vở sách vở đạo Nho, lại cho đọc cả các sách binh thư theo sở thích của Duyệt.
Dù mang khuyết tật bẩm sinh, song Duyệt không lấy đó làm tự ti mà trái lại còn mang hoài bão rất lớn. Bộ sử Đại Nam liệt truyện khi chép chuyện về Lê Văn Duyệt có viết rằng khi còn trẻ, Duyệt thường nói “Làm trai sinh ở thời loạn, nếu không trở thành đại tướng cầm quân, công danh được ghi vào sử sách thì sao xứng là kẻ trượng phu”.
Rồng gặp mây
Sự kiện quan trọng nhất trong đời Lê Văn Duyệt là cuộc gặp gỡ vua Gia Long (lúc này mới là chúa Nguyễn). Đại Nam liệt truyện chép: “Năm Canh Tý (1780) Thế Tổ lên ngôi chúa ở Gia Định, Duyệt năm ấy 17 tuổi, tuyển dụng làm thái giám, việc nội đình làm rất giỏi, được đổi bổ làm Thuộc nội cai đội, quản 2 đội thuộc nội”.
Sách Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam thì phân tích suy nghĩ của Duyệt: “ Duyệt suy nghĩ mãi và quyết định dự tuyển. Sung vào thái giám thì sẽ được hầu cận bên cạnh chúa. Rồi có ngày chúa sẽ nhận ra tài năng của Duyệt, sẽ cất nhắc Duyệt thành đại tướng cầm quân. Sinh ra ở thời loạn, lo gì không được thi thố tài năng?”.
Hữu xạ tự nhiên hương, ở bên Nguyễn Ánh trong những ngày bôn ba tìm cách phục quốc, chúa Nguyễn sớm nhận ra Lê Văn Duyệt không chỉ là một thái giám tầm thường mà còn có hiểu biết về việc binh. Bởi vậy, con mắt của chúa Nguyễn đối với Lê Văn Duyệt đã thay đổi, những khi có việc quân cơ thường cho Duyệt cùng bàn luận.
Năm 1793, khi theo chúa đi đánh quân
Tây Sơn ở Quy Nhơn, Duyệt lập được công lớn nên được phong Thuộc nội vệ úy thuộc quân Thần Sách.
Tài làm tướng của Duyệt được khẳng định rõ ràng lần đầu tiên là trận đánh đồn Trung Hội năm 1795. Trong trận này quân Nguyễn đi cứu thành Diên Khánh bị quân Tây Sơn vây. Tướng Tây Sơn là Lê Phong giữ đồn Trung Hội chặt, quân Nguyễn không vượt được. Duyệt liền bàn với tướng Nguyễn Đức Xuyên rằng: chia quân 2 đạo, tôi đánh thẳng sau đồn, cho giặc chống giữ, ông dẫn quân đến trước đồn đào nát cái lũy, lũy sụt, quân ta đánh trông hò reo mà vào, đồn thế nào cũng bị phá thôi.
Đức Xuyên còn e ngại vì chưa có lệnh. Thấy vậy Duyệt nói cứng rằng đã có lệnh rồi, tội vạ đâu tôi xin chịu cả. Đức Xuyên mới nghe theo lệnh. Quả nhiên quân Tây Sơn bị thua. Tin thắng trận báo về, Nguyễn Ánh đến nơi coi. Duyệt xin nhận tội giả làm lệnh vua nhưng Nguyễn Ánh nói: "Lâm trận chế thắng công ấy được ghi để thưởng, có tội gì".
Năm 1801 nổ ra trận quyết chiến giữa Tây Sơn và quân Nguyễn ở Thị Nại, Duyệt lại lập công đầu đánh tan được quân Tây Sơn. Đại Nam liệt truyện chép: “Quân giặc giữ đồn núi chống đánh. Súng đạn như mưa, Di Nguy bị súng giặc bắn ngã xuống nước chết. Duyệt đánh càng khỏe. Vua thấy tướng sĩ nhiều người chết, và bị thương, cho tiểu sai dụ tướng sĩ hãy tạm lui để tránh mũi nhọn của giặc. Duyệt xin liều chết đánh, đối với tiểu sai nói rằng chỉ có tiến không lui, cứ vào không ra, vây quân kíp tiến bèn vào được cửa biển, thuận gió phóng hỏa, đốt hết chiến thuyền của giặc. Giặc cả vỡ, chết rất nhiều, trận này là ngày 16 tháng giêng”.
Sau trận này quân Tây Sơn thế yếu đi rõ rệt và nhanh chóng bị quân Nguyễn đánh bại. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long, định đô ở Phú Xuân – Huế. Lê Văn Duyệt lại vâng lệnh ra Bắc đánh dẹp tàn quân Tây Sơn. Trong suốt triều vua Gia Long, Lê Văn Duyệt là vị tướng sáng giá nhất, nhiều lần nhận lệnh vua đi đánh dẹp các cuộc nổi loạn.
Không chỉ tài năng trong quân sự, khi làm Tổng trấn Gia Định, Duyệt cũng tỏ ra là một nhà chính trị sắc sảo. Trấn Gia Định dưới quyền cai quản của ông an ninh đảm bảo. Ông lại khuyến khích mua bán, trao đổi hàng hóa trong vùng và giao thương với người ngoại quốc. Năm 1823, ông cho đào kênh Vĩnh Tế để làm biên giới với Cam-pu-chia tỏ ra có tầm nhìn xa trông rộng về an ninh quốc phòng.
Nỗi oan Lê Văn Duyệt
Tuy công danh bậc nhất một thời song Lê Văn Duyệt lại một thời gian chịu mang tiếng oan. Năm 1832, ông mất ở Gia Định. Một năm sau con nuôi ông là Lê Văn Khôi nổi dậy khởi nghĩa ở thành Phiên An (Gia Định). Đến năm 1835, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Giận cá chém thớt, vua Minh Mạng đã sai đình thần nghị bàn cả tội của Lê Văn Duyệt.
Các quan lại nghị án đã nêu rất nhiều tội trạng của Lê Văn Duyệt theo kiểu bới bèo ra bọ. Những viên quan có thù ghét ông cũng nhân cơ hội tố cáo. Sau cùng vua Minh Mạng ra lệnh san bằng mộ Lê Văn Duyệt rồi dựng lên một cái bia ghi đại ý: “Đây là nơi Lê Văn Duyệt phụng pháp”.
|
Lăng mộ Lê Văn Duyệt. Ảnh: Wikipedia. |
Sử gia đời sau cho rằng, sở dĩ vua Minh Mạng không buông tha Lê Văn Duyệt ngay cả khi đã chết là vì nhà vua còn căm tức do trước đây Duyệt không ủng hộ mình lên ngôi mà ủng hộ con của hoàng tử Cảnh. Án oan này phải tới năm 1868, vua Tự Đức mới ban lệnh truy phục chức hàm cho Lê Văn Duyệt và cho thờ trong miếu trung thần ở Huế.
Cuộc đời và sự nghiệp của Lê Văn Duyệt đã chứng minh rõ ràng câu thành ngữ “có chí thì nên”. Với
dị tật của bản thân, nếu Lê Văn Duyệt không có chí hướng làm tướng lập công danh từ nhỏ thì chắc hẳn cuộc đời ông rồi hoặc làm một kẻ ái nam ái nữ bị cộng đồng xa lánh hoặc cũng bị cô độc chốn thâm cung trong kiếp thái giám chứ sao có thể lưu danh sử sách.
TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU
Vũ Tiến Đức