Lần giở những vụ án đê điều nổi tiếng sử Việt

Google News

(Kiến Thức) - Con đê đầu tiên được đắp với một quy mô lớn và được ghi vào chính sử, bảo vệ Kinh thành Thăng Long non trẻ là con đê Cơ Xá.

Trong quá trình dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã để lại cho chúng ta một hệ thống đê điều lớn nhất và cũng là biểu tượng đầy đủ nhất về ý chí và sức sống của dân tộc ta trải qua ngàn đời trụ sống trên mảnh đất của mình.
Nỗi lo chung của cả cộng đồng

Con đê đầu tiên được đắp với một quy mô lớn và được ghi vào chính sử, nhằm bảo vệ Kinh thành Thăng Long non trẻ đó là con đê Cơ Xá được Lý Nhân Tông tổ chức đắp vào năm Mậu Tý (1108). Hiện nay, Hà Nội còn có bãi Cơ Xá, dấu tích của con đê ấy, không xa quãng đê từ Nhật Tân đến Bác Cổ là bao.
Từ đó trở đi, các triều đại kế tiếp nhau cho đào đắp và gia cố thêm tạo nên một hệ thống đê điều hoàn chỉnh dọc theo hai bờ sông Hồng và các chi lưu thuộc đồng bằng rộng lớn Bắc bộ. Như vậy là hệ thống đê sông Hồng đã có một bề dày lịch sử trên một ngàn năm nay. Hệ thống đê không chỉ bảo vệ mùa màng mà đằng sau nó là sinh mạng, cuộc sống vật chất và văn hóa của cộng đồng dân cư trên địa bàn trọng yếu của dân tộc.
Trong thế kỷ XIX sang những thập niên đầu của thế kỷ XX, nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc thảo luận về việc tiếp tục đắp đê, thu hút rất nhiều ý kiến của các quan chức và sĩ phu cả nước. Các kỹ sư người Pháp, hồi đầu thế kỷ XX cũng đã từng có những dự án táo bạo để thoát lũ sông Hồng mà không cần phải nâng cao thêm đê, nhưng đều không thể thực hiện được. Người ta vẫn phải tiếp tục gia cố nâng cao đê ở cao trình chống lũ cao nhất (nhất là ở Hà Nội) và kết hợp hệ thống thoát lũ qua sông Đáy, sông Đuống và các con sông khác. 
Vì vậy, việc đắp và củng cố đê không chỉ và không thể là công việc của một làng, một xã hay một địa phương nào mà nó trở thành nỗi lo chung của cả cộng đồng, trong đó nhà nước trung ương đóng vai trò quan trọng nhất, thứ đến là các cấp tỉnh, thành.
 Ảnh minh họa.
Cơ quan chuyên trách về đê
Từ khi có đê, các triều đại phong kiến Việt Nam đều có các cơ quan chuyên trách về đê và các điều luật rất cụ thể về gia cố và bảo vệ đê. Thời nhà Trần có chức Hà đê chánh phó sứ chuyên trông coi việc đào đắp và tu bổ đê. Sang thời Lê vẫn duy trì chức quan này và đặt thêm chức khuyến nông đến tận cấp huyện bên cạnh chức quan Thừa chính và Hiến sát. Đến thời Nguyễn vì triều đình ở xa, người ta đã đặt ra chức Tổng lý và Tham lý đê chính tại Bắc thành bên cạnh quan tổng trấn. Giữ chức vụ này là hai quan hàm Thượng thư và Tham tri (tương đương chức bộ trưởng và thứ trưởng hiện nay). 
Đến năm Mậu Thìn (1828) triều vua Minh Mạng còn đặt ra một cơ quan riêng gọi là Đô nha chính, có trụ sở tại cửa Nam thành Hà Nội, biên chế 45 người, đứng đầu là một quan văn hàm nhị phẩm (quản lý đê chính) và một quan võ hàm tam phẩm (tham biện đê chính). Không chỉ cử người và thành lập cơ quan chuyên trách, mà các triều đại đều có những quy định cụ thể và nghiêm ngặt về đê điều. 
Bộ Quốc triều hình luật của triều Lê ghi: Phá hoại đê làm hại nhà cửa, lúa má của dân thì xử tội đồ hay tội lưu đày và bắt bồi thường thiệt hại (điều 596). Bộ Lê triều sự lệ quy định: "Quan lại tu bổ đê điều không chu đáo để vỡ đê, gây thiệt hại cho mùa màng thì quan Thừa ty bị tội đồ, quan phủ huyện bị tội lưu. Việc đôn đốc đắp bờ giữ nước không cẩn thận để bờ rỉ nước, ruộng khô cạn, thì quan phủ huyện và xã trưởng đều bị đánh 80 trượng...".
(còn nữa)
Dương Tuấn