Để triệt phá các băng đảng tội phạm ma túy hết sức nguy hiểm này, chính quyền Nhà nước Colombia đã mất hơn 30 năm với các giải pháp đấu tranh từng bước quyết liệt và cam go.
Bài 1: “Bố già” và những thủ đoạn rửa tiền tinh vi
Những ông trùm khét tiếng
Pablo Escobar Gaviria (1951-1993) là cái tên nổi tiếng nhất trong số các ông trùm ma túy ở Colombia, kẻ cầm đầu của Cartel Medellín. Escobar bắt đầu con đường tội phạm bằng các vụ đánh cắp xe hơi, cướp ngân hàng, buôn lậu thuốc lá. Vào giữa những năm 1960, hắn bắt đầu buôn bán ma túy. Khởi đầu bằng những lượng nhỏ mua tại Equador, giấu dưới gầm xe tải để vận chuyển về Medellín.
Giai đoạn đầu khi mới thâm nhập thị trường Mỹ, băng đảng của Escobar dùng các xuồng nhỏ, vận chuyển theo đường biển. Giai đoạn bùng nổ sau đó chúng vận chuyển bằng máy bay, cất cánh từ các đường băng bí mật, các khu rừng nguyên sinh gần với dòng sông Magdalena.
|
Một phòng “thí nghiệm” - nơi sản xuất ma túy của Cartel Medellín. |
Gonzalo Rodriguez Gacha (1947-1989), đối tác làm ăn chính với Escobar, bắt đầu “sự nghiệp” tội phạm bằng việc tổ chức các vụ giết thuê trong vùng Boyacá- Bogotá. Tham gia buôn bán ma túy vào đầu những năm 1980.
Hai anh em Gilberto và Miguel Rodriguez Orejuela đã lập nên tập đoàn ma túy có tên là “Cartel Cali”. Lúc đầu Gilberto tham gia vào băng đảng của José Santacruz Londoo, chuyên bắt cóc tống tiền các công dân Thụy Sĩ, nhưng hắn đã nhanh chóng chuyển sang buôn bán ma túy. Ma túy trong các hộp đựng gỗ lát sàn và gửi theo đường biển từ cảng Buenaventura sang Mỹ, địa chỉ nhận là các công ty hay các xí nghiệp “ma” (chỉ đăng ký kinh doanh mà không hoạt động) ở Mỹ.
Thời gian sau đó, chúng cũng mở thêm tuyến vận chuyển ma túy sang châu Âu theo đường biển, ma túy được giấu trong các hốc khoét trong than đá. Người em - Miguel Rodriguez Orejuela đã từng theo học luật nhưng đã bỏ dở để đi buôn ma túy với anh mình.
Giữa hai Cartel Medellín và Cali có những sự khác biệt rất lớn. Gonzalo Rodriguez Gacha hoàn toàn mù chữ. Trong một bài trả lời phỏng vấn của nhà báo German Castro Caicedo, Escobar khẳng định rằng Gacha không hề biết Gabriel García Marquez (nhà văn Colombia đoạt giải Nobel) là ai, đơn giản vì hắn ta không biết đọc. Bản thân Pablo Escobar cũng chưa học hết phổ thông. Trong khi đó Miguel Rodriguez Orejuela luôn trưng ra tấm bằng luật sư của mình với niềm tự hào không che giấu, còn Gilberto Rodriguez Orejuela cũng đã học hết phổ thông và đã từng theo học vài lớp dạy kỹ năng quản trị doanh nghiệp.
Jorge Luis Ochoa Vasquez và hai người em Juan David và Fabio xuất thân trong một gia đình quý tộc, điền chủ vùng Antoquia. Với chúng, đấu bò và đua ngựa là những niềm đam mê thừa hưởng từ người bố. Dẫu làm ăn chung với Escobar nhưng anh em nhà Ochoa đã tỏ ra rất khôn ngoan khi lánh xa ra trong cuộc chiến giữa các cartel cũng như các cuộc đàm phán với chính quyền Colombia và Mỹ mà vẫn không làm mếch lòng đồng minh của mình.
Với những kẻ tội phạm này, cocaine là một sản phẩm của tương lai, nghề buôn ma túy là nghề béo bở nhất trong thời đại của chúng, miền đất hứa đối với chúng là nước Mỹ, nơi mà giá bán ma túy là “không tưởng” so sánh với Colombia và các nước Nam Mỹ khác, vấn đề còn lại chỉ là tìm được cách chuyển được cocaine tới đó, bọn chúng gọi đó là “công việc”.
Escobar luôn tự hào với cái gốc gác nông dân vùng Antioquia của mình. Khác với các ông trùm của Cartel Cali, hắn không bỏ vợ để chạy theo các cô hoa hậu trẻ đẹp và cũng không có con ngoài giá thú. Hắn hãnh diện khoe ra bức ảnh chụp có nền là Nhà Trắng ở Mỹ và tậu những chiếc xe cũ lỗ chỗ vết đạn từng được các sát thủ của Mỹ sử dụng. Say mê vẻ đẹp của những con ngựa đua nhưng lại sẵn sàng hạ lệnh giết người rất lạnh lùng.
Đất nước Colombia hầu như không biết đến cái tên Pablo Escobar cho đến khi người lãnh đạo đảng “Liên minh Yêu nước” Jaime Pardo Lael lên tiếng tố cáo hắn trước công luận về tội buôn ma túy và vũ trang trái phép, ngay lập tức hắn hạ lệnh sát hại ông ta.
Còn anh em nhà Rodriguez Orejuela thì luôn muốn đóng vai những nhà doanh nghiệp khả kính. Chúng sinh hoạt rất thoải mái trong các thành phố lớn, con cái được học hành trong các trường đại học tư thục tốt nhất, thậm chí còn được gửi đi học ở nước ngoài. Khác với Escobar, các capos (ông trùm) của cartel Cali không tìm cách tuyển mộ các thanh niên có hoàn cảnh đói nghèo và chúng cũng không quan tâm phát triển ảnh hưởng ở các vùng đất nghèo đói.
Những thủ đoạn “rửa tiền” tinh vi
Hiển nhiên rằng với nguồn gốc xuất thân và trình độ văn hóa khác nhau, chiến lược của các capos – những ông trùm các băng đảng ma túy Colombia trong việc kiểm soát và phát triển buôn bán ma túy cũng sẽ rất khác nhau.
Sau những thành công ban đầu, Escobar đã quyết định mở hẳn một trung tâm, gọi là “văn phòng”, dành riêng cho việc buôn bán ma túy. Đó là một khối nhà to lớn, nằm ngay trung tâm Medellín. Đây là điểm tập kết hàng, bất cứ ai cũng có thể đến đó mua bán ma túy với số lượng không hạn chế.
|
Pablo Emilio Escobar Gaviria - kẻ đứng đầu tập đoàn ma túy Medellín. |
Nhiệm vụ chính của “văn phòng” này là làm sao để ma túy có thể phân phối rộng rãi ở các thành phố lớn Bắc Mỹ với giá cả từ 25.000 đến 45.000 đôla/kg. Carlos Lehder Rivas, sống tại Mỹ, con trai của một người Đức và một phụ nữ nghèo khó Colombia, đã đóng vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng nhảy vọt của Escobar.
Khởi đầu bằng việc mua bán một số lượng nhỏ ma túy, Lehder đã có ý tưởng thiết lập một trung tâm trung chuyển ma túy với số lượng lớn. Hắn đã thuê trọn vẹn một trong những hòn đảo của Bahamas, vị trí thuận lợi cho cả việc trung chuyển bằng máy bay và tàu thủy một khối lượng ma túy lớn.
Với lợi nhuận khổng lồ từ buôn bán ma túy, Escobar đã chi những món tiền lớn vào một số công trình công ích, lớn đến mức làm dư luận phải sững sờ: Một vườn thú, mở cửa miễn phí với 2.000 con thú, 100 giống loài quý hiếm nhập về từ khắp nơi trên thế giới: Australia, Sahara, Canada, châu Âu, Congo, Ethiopie. 400 căn nhà cấp không cho các gia đình nghèo khó ở Medellín và Envigado. Trước cửa vườn thú, Escobar trưng bày chiếc máy bay loại Piper, biển số HK 617-P. Những người thạo tin rỉ tai nhau rằng đó là chiếc máy bay chở những lượng ma túy đầu tiên của hắn hạ cánh xuống nước Mỹ.
Phương thức vận chuyển ma túy và đầu tư tài chính của anh em nhà Rodriguez Orejuela thì lại hoàn toàn khác, nhóm này chủ trương thành lập các công ty hoành tráng, án ngữ mặt tiền của các đường phố lớn. Ma túy được ngụy trang thành các hàng hóa hợp pháp để chuyển đi. Chính vì thế chúng đã lập những công ty và các văn phòng như “phòng thí nghiệm Kessfor”, “Tập đoàn Radial Colombiano”, “Tổ hợp tài chính Boyacá”, đóng vai các nhà đầu tư nghiêm túc, anh em nhà Rodriguez Orejuela đã cố gắng gia nhập thế giới hợp pháp của các nhà doanh nghiệp.
Năm 1965, Gilberto Rodriguez Orejuela tham gia vào ban lãnh đạo của ngân hàng “Trabajadores” mà hắn ta là cổ đông chính. Ngân hàng này được thành lập theo sáng kiến của Hiệp hội Những người lao động Colombia, tổ chức công đoàn lớn nhất của Colombia. Năm 1978 hắn ta tiếp tục mua cổ phần của ngân hàng “First Interamerica” của Panama và nắm giữ đến 75% cổ phần của ngân hàng (1984). Hệ thống những ngân hàng này đã giúp anh em nhà Orejuela rửa được những món tiền khổng lồ, ngụy trang dưới danh nghĩa tiền bán cà phê, một sản phẩm hợp pháp của Colombia.
Về phần Gonzalo Rodriguez Gacha, hắn tìm cách chuyển tiền lậu qua biên giới. Tiền bán ma túy thu được ở Mỹ được đem đi chôn ở trang trại, mỗi lần trả lương cho tay chân thì hắn lại đào lên. Không nghĩ đến chuyện đầu tư vào đâu cả, lợi nhuận được hắn chuyển thành vàng, trang sức hoặc bất động sản.
Đánh bóng tên tuổi, tạo vỏ bọc
Pablo Escobar cố gắng tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, mong qua đó có được sự thừa nhận của xã hội. Hắn khởi xướng phong trào “một Medellín không có khu ổ chuột”, bỏ tiền xây các căn hộ tặng cho người nghèo, xây các câu lạc bộ, các sân tập thể thao và các trường học. Năm 1982, hắn trúng cử làm nghị viên thành phố. Thời điểm vinh quang nhất là khi hắn được cử đi theo đoàn các nghị sĩ sang dự lễ nhận chức thủ tướng Felipe Gonzalez tại Tây Ban Nha.
Carlos Lehder, người phụ trách vận chuyển ma túy của Escobar cũng tạo dựng mối liên hệ giữa giới buôn ma túy và chính trị bằng cách lập ra một đảng chính trị của riêng mình: “phong trào Latino” mà cương lĩnh chính là chống lại Hiệp ước Dẫn độ. Rodriguez Gacha cũng tìm cách gây ảnh hưởng chính trị tại địa phương thông qua nhóm “Morena”, nhóm chịu ảnh hưởng của đảng Tự do và thủ lĩnh các lực lượng bán vũ trang. Rodriguez Gacha gây ảnh hưởng bằng việc tài trợ tiền nhưng chủ yếu bằng sự hăm dọa đối với các lực lượng này .
Các phương pháp đầu tư của anh em nhà Rodriguez Orejuela kín đáo hơn và cũng hiệu quả hơn. Không tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, chúng mua lấy sự bảo trợ của các nghị sĩ trong quốc hội và của chính phủ bằng việc tài trợ cho các chiến dịch tranh cử và chi trả các dịch vụ liên quan. Không quá lời khi chúng khoe khoang rằng nếu muốn, chúng có đủ khả năng để tập hợp được “một đa số trong quốc hội”. Cartel de Cali cũng tìm cách liên kết với giới tinh hoa địa phương bằng những khoản đầu tư hợp pháp vào nền kinh tế của địa phương và tham gia vào các sự kiện của thành phố.
Sự khác biệt giữa các tập đoàn tội phạm đã khiến nhà cầm quyền Colombia có lúc ảo tưởng rằng có “mafia loại một và mafia loại hai” . Vì thế trong khi một số tội phạm được xem là “các nhà kinh doanh đáng kính” dẫu rằng “đã có những buôn bán bất hợp pháp” thì những tội phạm khác như “Cartel de Medellín” lại được xem là những thế lực tội phạm nguy hiểm đang trỗi dậy và cần phải trừ khử bằng vũ lực chứ không thể thương thuyết.
Những câu lạc bộ địa phương, nơi gặp gỡ của giới tinh hoa vì thế luôn cấm cửa đối với Escobar, Rodriguez Gacha hay José Santacruz Londoo. Hậm hực, Londoo đã tự lập ra một phiên bản của câu lạc bộ đã khước từ hắn và đặt luôn tại nhà. Anh em nhà Rodriguez Orejuela thì đã được chấp nhận gia nhập các câu lạc bộ thượng lưu địa phương sau khi đã bỏ ra những món tiền lớn. Sau khi sa lưới pháp luật, người ta đã lần ra được dấu vết của những món tiền lớn đã được chuyển từ tài khoản của anh em nhà này tới tài khoản của ban giám đốc những doanh nghiệp lớn, các nhân vật “nổi tiếng trong sạch” trong giới chính trị, văn hóa và thể thao…
Theo Dương Thắng/ANTG