Ngày hôm qua, người con trai của một bạn đồng tu từ TP.HCM về ghé thăm và trao 100 quyển kinh Vô lượng thọ nhờ tôi tìm chùa hoặc Phật tử nào cần thì tặng giúp. Qua thăm hỏi được biết cậu ấy đã tốt nghiệp đại học, ra trường làm cho một công ty nước ngoài hưởng lương khá cao, những quyển kinh trên là một phần trong số kinh được ấn tống từ hai tháng tiền lương đầu tiên mà cậu ấy nhận được.
Nhìn những quyển kinh Phật còn thơm mùi giấy mới, tôi thầm khâm phục cách sử dụng đồng tiền một cách có ý nghĩa của gia đình bạn tôi. Vừa lợi ích cho người vừa tạo phước lớn cho mình. Trông người lại ngẫm đến mình, lòng tôi lại thấy nao nao tiếc nuối về những việc làm sai trái trong quá khứ để bây giờ mang một niềm ân hận khôn nguôi.
Vào những năm thuộc thập kỷ 80 đất nước còn nhiều khó khăn, lương bổng công nhân viên chức đa phần đều ít ỏi, sinh hoạt chật vật, thiếu thốn. Khi nhà nước với chính sách mở cửa thực hiện chủ trương kinh tế thị trường thì cuộc sống mọi người được cải thiện. Thời điểm đó tôi cũng tranh thủ làm thêm để tăng thu nhập, dành dụm một thời gian tôi có một chỉ vàng. Và chính từ chỉ vàng này, do vô minh tôi đã gây một nghiệp xấu là tìm mua một khẩu súng hơi và bắt đầu một cuộc tàn sát sinh linh mà mỗi khi nhớ lại tôi giật mình sợ hãi vì sự tàn ác của mình.
Lúc bấy giờ quê tôi có rất nhiều chim, cò và dơi. Vào mùa trái cây chín chim ăn quả bay về hàng đàn. Cò trắng kiếm ăn từng bầy trên những cánh đồng đang cày bừa, chúng rất dạn với người. Còn dơi thì cũng rất nhiều, ban ngày chúng đeo dưới những tàu dừa rậm rạp, tụ lại thành từng nhóm hàng chục con. Với điều kiện chim chóc đầy dẫy, dạn người, tôi tha hồ bắn giết. Mỗi buổi tôi bắn được vài chục con chim là chuyện thường. Số chim, dơi bắn được lớp chế biến làm thức ăn, lớp phơi khô. Những người được tôi đãi nhậu bằng thịt chim rất thích, hết lời khen ngợi tài bách phát bách trúng của tôi. Được khen, tôi lại càng hăng đi bắn giết.
Rồi điều gì sẽ đến đã đến. Sau hai năm bắn giết, một buổi sáng ngủ dậy tôi thấy đau đau ở chân mày trái. Tôi đến bệnh viện khám được chỉ định phẫu thuật, một tuần sau vết mổ lành. Tưởng đã yên, nào ngờ trên đỉnh đầu phía bên mổ đau nhức dữ dội khiến một bên mắt bị mờ đi, kèm theo đó là nhớt tanh hôi tuôn trên xoang mũi xuống cổ họng khiến tôi phải khạc nhổ liên tục. Đến bệnh viện chuyên khoa tai-mũi-họng khám và được chẩn đoán là viêm xoang mãn hồi cấp, tôi được chỉ định rửa, thông xoang và thuốc uống.
Điều trị một thời gian dài thấy đỡ, tôi ngưng dùng thuốc, chỉ vài ngày sau là bệnh tái phát như cũ, lại phải uống thuốc, xông rửa xoang tiếp. Cứ như thế bệnh kéo dài hết năm này đến năm khác, cuộc đời tôi lúc ấy thật thê thảm. Có những lúc nhức đầu dữ dội tôi phải chúi đầu vào mền gối chịu đựng, tư thế lúc đó giống như những con chim bị trúng đạn chúi đầu vào bụi cỏ trốn sự truy sát của tôi. Sau này khi đến với Phật pháp tôi rất thấm thía từ “địa ngục vô gián”, sự đày đọa liên tục khiến ta dở sống, dở chết, nhìn cuộc đời sao quá tăm tối, không còn thiết tha với bất cứ chuyện gì.
Ngoài bệnh tật hành hạ, hao tốn tiền bạc, quả báo còn tác động đến gia đình tôi hết sức nặng nề. Vợ tôi mang thai bốn lần đều bị hư hết. Khao khát có được một đứa con để ẵm bồng luôn dằn vặt nên tôi quyết định xin con nuôi. Bốn đứa trẻ vào nhà tôi chỉ ở một thời gian ngắn rồi cũng trở về. Tôi tốn khá nhiều tiền trong việc xin con nuôi nhưng rốt cuộc vẫn trắng tay. Tôi phải chịu đựng cảnh bệnh tật triền miên, nhà cửa quạnh hiu suốt mười mấy năm trời. Do sức khỏe suy sụp nên tôi bỏ hẳn việc săn bắn, khẩu súng không dùng lâu ngày đã hỏng do gỉ sét.
Đến khoảng năm 1993, tôi may mắn quen được một chị Phật tử. Biết cảnh trục trặc về đường con cái của tôi, chị ấy khuyên nên đi hốt thuốc Nam của chùa Pháp Hoa ở Đồng Nai về uống xem sao. Không ngờ, chỉ với những món thuốc lá cây đơn giản mà vợ tôi đã có thai và sinh ra một bé gái khỏe mạnh. Gia đình, nội ngoại hai bên ai nấy đều vui mừng đến thăm viếng rất đông. Còn tôi thì khỏi phải nói, cứ lăng xăng tối ngày bên em bé để ngắm nhìn, hôn hít.
Từ việc uống thuốc Nam của chùa mà có được đứa con, tôi đã có niềm tin vào Phật pháp. Tôi bắt đầu đến chùa gần nhà để lạy Phật và ăn cơm chay vào những ngày rằm lớn. Sau đó, nhờ những băng giảng Phật pháp, đặc biệt khi tôi được tặng bộ sách Phật học phổ thông, đọc hơn một tháng tôi đã dần nắm được giáo lý căn bản. Khi đã hiểu về Phật pháp, nhất là luật nhân quả tôi biết mình đã gây nghiệp xấu quá nặng nề. Tôi nguyện cố làm theo lời Phật dạy hy vọng có thể giảm bớt phần nào báo ứng của những tội lỗi mình đã gây ra. Ngoài đọc tụng kinh Phật, mỗi đêm đều có hai thời tọa thiền, ban ngày thì thường niệm Phật A Di Đà. Tôi hành trì như thế suốt hơn 15 năm không hề lơ là, chỉ trừ khi bệnh nặng ngồi không nổi mới tạm ngưng. Ngoài công phu, tôi còn thường xuyên tham gia các hoạt động Phật sự, cúng dường, phóng sanh, công tác từ thiện...
Dù đã cố hết sức làm theo lời Phật dạy nhưng bệnh tật vẫn đeo đẳng mãi không giảm mà còn có chiều hướng tăng thêm. Những cơn đau đầu dữ dội đến mờ cả mắt, nhớt chảy từ xoang mũi tanh hôi nhiều hơn, các cơn nóng lạnh kéo đến thường xuyên, những tác dụng phụ của thuốc uống vào khiến người tôi lúc nào cũng lao đao, bứt rứt. Cứ như thế hành hạ tôi gần 18 năm trời.
Đến mùa đông năm 2007 tôi phát bệnh nặng, đã điều trị hơn 15 ngày vẫn không giảm. Một đêm thắp hương xá trước bàn thờ Phật (vì lạy không nổi) tôi tuyệt vọng mà than thở rằng: “Phật, Bồ-tát ơi! Con đã hết lòng thực hành theo lời dạy của các Ngài mà sao bệnh tật cứ hành hạ con hoài, đau đớn không chịu nổi. Thôi thì xin giúp cho con chết đi để nhẹ tấm thân”. Khấn nguyện rồi tôi đi ngủ, trong giấc ngủ chập chờn nửa mê nửa tỉnh tôi chợt thấy Đức Bồ-tát Quan Âm hiện ra trước mặt. Ngài nói: “Để Ta cho con bài thảo dược này để trị bệnh”. Mừng quá tôi chắp tay chuẩn bị lắng nghe thì đột nhiên tỉnh dậy. Ngơ ngẩn vì tiếc nuối, tôi giận mình tỉnh giấc không đúng lúc khi Bồ-tát chưa kịp đọc cho nghe tên các vị thuốc, biết lấy gì để trị bệnh đây. Cứ như thế tôi thức tới sáng không ngủ lại được.
Sáng hôm sau đang nằm võng với tâm trạng chán nản thì người chị ruột gọi về hỏi thăm, nghe tôi kể tình trạng bệnh chị khuyên tôi thử dùng tỏi và gừng xông hơi xem sao vì có nhiều người dùng như vậy mà đỡ bệnh. Tôi thực hiện theo lời chị ấy bảo nhưng khi tiến hành xông thì chịu không nổi vì đau, rát trong mũi và tức ngực nên đành ngừng xông. Ngồi nhìn tô nước gừng, tỏi bốc hơi nghi ngút tôi thấy tiêng tiếc và chợt nghĩ, nếu xông không được thì mình uống, không có lợi thì cũng đâu có hại vì chỉ là gia vị dùng hàng ngày. Sẵn trên bàn có mấy món thức ăn và gia vị khác, tôi lấy mỗi thứ một chút đem bỏ thêm vào tô nước tỏi gừng cho thơm, ngon dễ uống.
Tôi bắt đầu uống món thuốc “tự chế” nóng hổi từng ngụm nhỏ và ngạc nhiên vì vị hấp dẫn của nó, vừa thơm thơm, cay cay, chua chua, ngòn ngọt chẳng hề có mùi hôi của tỏi. Cứ như thế tôi đã uống hết tô hỗn hợp thức ăn, gia vị đó trong ngày. Đêm đó tôi ngủ rất ngon, không chiêm bao mộng mị, ho giảm nhiều dù không dùng thuốc ho. Sáng hôm sau thấy khỏe trong người tôi quyết định cắt thuốc Tây chỉ dùng nước gừng tỏi hỗn hợp như hôm trước và qua một đêm nữa, biết bệnh đã giảm nhiều nhưng tôi vẫn tiếp tục uống thêm năm ngày liên tục. Lạ thay, tất cả các triệu chứng bệnh tật hoàn toàn biến mất.
Khi đã qua cơn bạo bệnh, tôi ngẫm nghĩ dù Bồ-tát Quan Âm không trực tiếp đọc cho tôi bài thuốc nhưng có lẽ Ngài đã xui khiến cho chị của tôi đúng sáng hôm sau điện về thăm hỏi, khuyên tôi nên dùng bài thuốc dân gian mà hầu như ai cũng biết; và có lẽ cũng chính Ngài hỗ trợ cho tôi chọn thêm gia vị vào để thành một bài thuốc cứu mạng chính mình. Từ đó về sau cứ vài ngày tôi lại làm món nước gừng tỏi hỗn hợp trên để uống. Tôi gọi món nước đó là trà Quan Âm để nhớ đến công ơn của Ngài và cứ như thế sức khỏe của tôi hồi phục hoàn toàn.
Chiêm nghiệm cuộc đời, tôi hiểu bệnh của mình là do nghiệp báo sát sanh mà có. Nhờ tin theo Phật pháp mà tôi được cứu mạng, nên tôi nguyện tinh tấn tu tập, luôn sống và thực hành theo lời Phật dạy để chuyển hóa ác nghiệp của mình.