Trong ký ức những người vào tuổi xưa nay hiếm ở Gò Công cũng chỉ biết vào những năm 1920, tại Gò Công có một nhóm Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh do một người tên Lâm Sang làm thủ lĩnh. Y tự xưng là Lò Sang. Người dân thường gọi là Chệt Cheng hoặc Chệt Xèng, Chệt Sang.
Lâm Sang là người Việt gốc Hoa. Cha của Sang là một thành viên của Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh ở Bạc Liêu. Người ta quen gọi ông ta là Chệt Lâm. Không có tài liệu nào cho biết lý do vì sao cha của Sang trôi về tận xứ Gò Công mở tiệm hủ tiếu tại chợ Tổng Châu (bây giờ là chợ Tân Tây, Gò Công Đông, Tiền Giang).
Cũng có dòng truyền khẩu cho rằng, Chệt Lâm là thuộc hạ cũ của Nguyễn Ngọc Chấn, người thôn Tân Niên Tây, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông Chấn tham gia khởi nghĩa Trương Định, lập được nhiều chiến công, nên được phong chức Đốc binh, do đó, mọi người quen gọi là Đốc binh Chấn. Trong quá trình chiến đấu, ông là một trong những cộng sự thân tín nhất và được Trương Định đặc biệt tin cậy. Ngày 20.8.1864, trong trận phản công cuộc tập kích bất ngờ của việt gian Huỳnh Văn Tấn, ông đã bị trọng thương. Quân Pháp đã đày ông ra Côn Đảo suốt 9 năm. Sau khi được Pháp trả tự do ông về quê nhà mở trường dạy học và lập đền thờ Trương Định. Năm 1907, do tuổi cao sức yếu, ông qua đời tại Giồng Tháp (Gò Công).
Đời Gia Long, thôn Tân Niên Tây thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc và đến đời Tự Đức thì thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.
Chệt Lâm lấy nghề bán hủ tiếu làm kế sinh nhai và dốc hết tâm huyết vào việc dạy cho đứa con trai duy nhất là Lâm Sang tất cả những tuyệt kỹ võ công của mình. Ông không mong con trai trở thành 1 lãnh tụ phục Minh. Với ông, tổ chức Thiên Địa hội không còn tác dụng "phục Minh" thì võ nghệ chỉ là 1 phương tiện phòng thân.
Lâm Sang học võ rất nhanh nhưng không thể nhét được 1 bài toán cộng trong đầu. Suốt thời gian bám lưng cha, Sang chỉ biết bưng bê hủ tiếu cho khách và rửa tô chén. Tuy rất cưng chiều nhưng Chệt Lâm rất nghiêm khắc trước những lỗi lầm nhỏ nhặt của con trai. Ông thường xuyên đánh đập tàn nhẫn mỗi khi Lâm Sang làm ông phật ý.
Năm 1910, Sang (đã 18 tuổi) được cha sai đi Chợ Lớn mua bột ngọt (mỳ chính) và một số nguyên liệu đặc biệt đế nấu nước súp hủ tiếu theo công thức gia truyền. Sang đi xe lửa từ ga Mỹ Tho đến ga Chợ Lớn. Rồi từ ga Chợ Lớn, Sang tiếp tục lên xe ngựa đến nơi bán nguyên liệu. Khi xe ngựa đi ngang một sân đấu võ đài, Sang tò mò vào xem.
Sang háo hức ghi danh thi đấu. Do lần đầu tiên thượng đài thiếu kinh nghiệm giao đấu, Sang thua cuộc. Khi kết thúc trận đấu thì chuyến xe lửa cuối cùng đã xuất bến. Sang đành thuê chiếu ngủ tại một bến xe ngựa. Đêm đó trộm cuỗm mất chiếc túi rút đựng tiền. Không dám về nhà, Sang đành xin các phu xe ngựa chân sai vặt để có cơm ăn hàng ngày.
Thế là Sang trở thành phu xe ngựa ở bến xe Chợ Lớn.
Thời ấy, xe xích lô bắt đầu xuất hiện nên xe ngựa dần ế ẩm. Các phu xe ngựa phải giành giật nhau từng người khách. Với vốn võ nghệ, Sang trở thành một đầu gấu thứ thiệt ở bến xe ngựa Chợ Lớn. Sang không thèm làm phu xe ngựa nữa mà đứng bến phân chia tài chuyến cho phu. Xe ngựa muốn đậu ở bến phải chung tiền "xâu xếp tài" cho Sang. Lâm Sang thu phục thêm nhiều đàn em để tăng sức mạnh băng nhóm. Sang tự nhận mình là thành viên Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh để quy tụ đàn em.
Năm 1916, cuộc khởi nghĩa của Phan Xích Long (Thiên Địa hội phản Pháp phục Việt) thất bại, quân Pháp ráo riết truy bắt tất cả ai mang danh nghĩa Thiên Địa hội. Tuy không liên quan đến phong trào Phan Xích Long, Lâm Sang vẫn không dám cư trú ở Chợ Lớn mà trốn về quê Gò Công. Khi trở về Gò Công, Sang mới biết cha mình đã chết sau một cơn bạo bệnh.
Côn đồ chợ huyện
Để có cơm ăn, Lâm Sang dùng danh nghĩa Thiên Địa hội của cha mở lò dạy võ ở phía bờ đối diện bến chợ Tổng Châu.
|
Ngày xưa ngôi chợ Tân Tây là Chợ Tổng Châu - Nơi băng đảng của Lò Sang hoành hành. |
Ai đến xin học, Lâm Sang đều lập hương án buộc tuyên bố xin gia nhập vào Thiên Địa hội. Ngoài những bài luyện võ, Lâm Sang dạy thêm về những quy định, luật định bí mật của Thiên Địa hội. Ngoài ra, Lâm Sang còn dạy cho học trò huyền thuật, bùa chú, ngải truật mà mình được học trong thời gian tham gia Hội Kín.
Những quy định, luật lệ của Lâm Sang có vẻ như ẩn chứa tinh thần nghĩa hiệp, "giang hồ tứ hải giai huynh đệ" đã đánh trúng vào tâm lý hào sảng của thanh niên địa phương. Những nội quy bí mật đã khêu gợi trí tò mò của mọi người. Chỉ một thời gian ngắn, khắp vùng Gò Công người ta rỉ tai lan truyền: Lâm Sang là thủ lĩnh thừa kế Thiên Địa hội vùng Gò Công. Từ đó, hàng trăm thanh niên bỏ gia đình, bỏ ruộng nương ùn ùn kéo đến xin gia nhập hội. Lâm Sang bắt đầu xưng danh "lò". Vì vậy người ta gọi hắn là "Lò Cheng" hoặc "Lò Sang".
Đệ tử xin gia nhập càng lúc càng đông, Lâm Sang bắt đầu cắt đặt một số đệ tử thân tín ở hàng thứ nhất đứng ra chỉ huy từng nhóm. Những nhóm nhỏ này, Lâm Sang gọi là bang (người dân miền Nam nói trại ra thành "băng"). Người đứng đầu băng gọi là băng chủ.
Suốt ngày Lò Sang ngồi chễm chệ trên chiếc ngai sơn son thếp vàng, chạm rồng như ngai vua. Chiếc ngai đặt trên một bàn hương án giống như bàn thờ, thắp hương nghi ngút ngày đêm. Hai bên ngai luôn túc trực 2 đệ tử thân tín nhất. 2 đệ tử này luôn mặc võ phục, tay khoanh trước ngực, mặt hầm hầm như muốn ăn tươi nuốt sống mọi người.
Hắn cho các băng chủ gia tăng việc "luộc", "nấu", "hấp" hội viên mới. Đệ tử mới phải được đệ tử cũ giới thiệu bảo lãnh mới được tham gia công đoạn này. Sau khi hoàn tất giai đoạn "hấp", tân đệ tử phải làm lễ gia nhập hội gồm nghi thức cúng tổ, ra mắt Lâm Sang.
Muốn gia nhập hội, đệ tử phải sắm lễ vật gồm 1 cặp gà trống thiến, 1 bình rượu thuốc, một gói tiền và 1 mâm trái cây. Mỗi lần tổ chức lễ gia nhập hội viên mới, nhờ số lượng đông, có khi số lượng gà cúng lên đến hàng trăm con, đám đệ tử ăn nhậu linh đình. Hứng lên, Lâm Cheng còn bỏ tiền thuê đoàn hát hồ quảng về phục vụ.
Tại lễ gia nhập hội, những đệ tử mới phải ở trần, quỳ trước hương án (gọi là bàn thờ tổ) sụp lạy Lâm Sang rồi dùng dao tự cắt tay trích máu hòa vào chậu rượu, miệng đọc bài chú thề thốt đã học thuộc lòng trước đó. Bài chú thề có nội dung tuyệt đối trung thành, tuân thủ mệnh lệnh lãnh tụ, sống chết có nhau, ai phản bội chấp nhận người đồng băng xử tử thê thảm. Thề xong, người đệ tử cũ giới thiệu, bảo lãnh đứng ra đấm đệ tử mới mấy cú gọi là "chào sân". Sau khi ăn mấy cú đánh chí tử, có khi hộc máu mồm, đệ tử mới chính thức được công nhận là đã nhập băng.
Cũng tại lễ này, đệ tử mới sẽ được phân "phái". Phái xanh còn gọi là "hiện" chuyên hành động. Phái vàng còn gọi là "mật" chuyên hoạt động bí mật.
Kết thúc buổi lễ, đệ tử mới được xâm 1 ký hiệu trên vai gọi là xâm bùa hộ mệnh. Hình xâm này có 2 mục đích: 1/ Ai mang hình xâm sẽ được thần linh hỗ trợ, thật ra là ký hiệu để nhận ra nhau. 2/ Thần linh trong lá bùa sẽ theo dõi nhất cử nhất động của đệ tử, nếu vi phạm lời thề thần linh sẽ quở phạt. Nhưng thật ra chỉ mang mục đích hù dọa để đệ tử không phản bội.
Chỉ những đệ tử cao cấp mới được xăm hình đầu cọp nhe nanh, rồng quấn quanh người. Đệ tử cao cấp theo phái "mật" sẽ được xăm hình rồng quấn. Đệ tử cao cấp theo phái "hiện" được xăm hình đầu cọp nhe nanh.
Người trong băng chỉ nói với nhau bằng tiếng lóng.
Những băng giang hồ lưu manh thế hệ sau cũng bắt chước Lò Sang cắt máu, ăn thề, chào sân, xăm mình, nói tiếng lóng nhưng… không theo luật lệ quy tắc nào cả.
Thời điểm đó chợ Tổng Châu là nơi các thương nhân người Việt gốc Hoa chọn làm chợ đầu mối thu mua sỉ hàng nông sản, thủy sản từ các tàu, xuồng của thương hồ từ khắp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đổ về.
Nhận thấy chợ Tổng Châu là nguồn thu dồi dào, Lâm Sang lùa các đệ tử đi gặp từng tiểu thương để thu tiền "bảo kê" hàng ngày. Ai không nộp hoặc nộp chậm sẽ bị đánh đập.
Việc đòi tiền xâu của Lâm Sang đã chạm vào "chén cơm manh áo" của Hai Liếp.
Hai Liếp mồ côi từ nhỏ, sống vạ vật lề đường xó chợ, ai thuê gì làm nấy. Đến tuổi trưởng thành, Hai Liếp nhận bốc vác hàng hóa tại bến sông. Tuy chưa xưng danh là đại ca bến bãi nhưng thân hình vạm vỡ của Hai Liếp khiến ít người dám gây sự. Bản tính ít nói, thật thà, Hai Liếp chỉ biết bán sức lao động kiếm cơm.
Một hôm, Hai Liếp vác khoai lang từ 1 chiếc tàu hàng của thương hồ Bạc Liêu lên chợ. Do chủ tàu hàng chưa nộp tiền xâu nên Lâm Sang đã chặn Hai Liếp ở giữa đòn dài (đòn dài là tấm ván gỗ có bề ngang vừa đủ 2 bàn chân bắt làm cầu từ be tàu, xuồng lên bờ để đi). Hai Liếp bỏ bao hàng xuống nghênh chiến.
Trận đấu tay đôi bất phân thắng bại khiến địa bàn bảo kê của Lâm Sang chỉ thu hẹp trong phạm vi chợ.
Hai Liếp nghiễm nhiên trở thành đại ca bảo kê bến sông. Những khách thương hồ không muốn Lâm Sang gây sự chỉ việc thuê Hai Liếp bốc vác. Một mình không làm xuể, Hai Liếp lôi kéo một số thanh niên có sức vóc lập đội bốc vác. Hai Liếp chỉ đứng trên bờ đếm thẻ, ăn tiền đầu công.