Hạ giá thành, thúc đẩy sản xuất hàng hóa và nâng cao chất lượng nông lâm thủy sản. Đã có những bằng chứng cho thấy tăng trưởng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam đang giảm dần và thấp hơn một số nước trong khu vực, làm mất đi một trong những lợi thế cạnh tranh tốt nhất của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Đây là vấn đề được Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội quan tâm, được thể hiện cụ thể trong Văn kiện đại hội ĐCS khóa XII: “Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách và có giải pháp phù hợp tạo điều kiện thuận lợi phát triển bền vững thị trường bất động sản, bảo đảm vận hành thông suốt, hiệu quả. Phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp để khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất”.
Tuy nhiên, quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất trên thực tế diễn ra chậm, kinh tế trang trại phát triển yếu ớt. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa không tương xứng với sức lao động người nông dân bỏ ra, làm nông dân không còn tha thiết với sản xuất nông nghiệp, thậm chí trong thời gian gần đây có nơi còn bỏ ruộng. Trong khi đó, các doanh nghiệp đầu tư đồng bộ, quy mô lớn cho sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn để có đất sản xuất nông nghiệp. Thị trường đất nông nghiệp Việt Nam hoạt động rất yếu ớt làm ruộng đất không được đưa đến người sử dụng tốt nhất, khó áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Trong bối cảnh đó, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp được xem là bước đi tất yếu để thực hiện được mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, hiện còn rất nhiều băn khoăn về các hệ lụy xấu của tích tụ, tập trung đất nông nghiệp như: (i) Làm cách nào tạo ra sinh kế mới cho lao động nông nghiệp dôi dư? (ii) Làm cách nào để tránh được việc tạo ra tầng lớp địa chủ mới, tránh được hiện tượng “phát canh thu tô”? (iii) Làm cách nào để tránh được việc doanh nghiệp chèn ép người dân dưới danh nghĩa tích tụ, tập trung đất nông nghiệp? (iv) Làm cách nào để người sản xuất nông nghiệp có thu nhập ổn định, xứng đáng với công sức họ bỏ ra nhưng vẫn đảm bảo tính hiệu lực của các quy hoạch phát triển nói chung?
Trên thực tế, đã xuất hiện nhiều giải pháp, mô hình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp tại các địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và giá trị gia tăng của sản phẩm từ nông nghiệp. Đây là khởi điểm để xem xét, lựa chọn hình thức thích hợp, làm cơ sở cho việc đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp phù hợp, phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Bài viết này tập trung rà soát các hình thức tích tụ, tập trung đất nông nghiệp dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế (thu nhập, hiệu quả sử dụng đất, khả năng áp dụng khoa học công nghệ ….), hiệu quả xã hội (không làm gia tăng bất bình đẳng, đảm bảo quyền lợi của nông dân, không gây bất ổn xã hội khi tích tụ, tập trung ruộng đất quy mô lớn vào một số đối tượng), tính khả thi và khả năng nhân rộng (giảm thiểu những đòi hỏi về chi phí bỏ ra ban đầu, giảm thiểu những yêu cầu thay đổi mạnh mẽ về khung pháp lý và thể chế chính trị - xã hội). Trên cơ sở đó, bài viết sẽ đúc kết một số quan điểm và đề xuất chủ trương, cơ chế chính sách tạo đột phá trong tích tụ, tập trung đất nông nghiệp trong thời gian 10-15 năm tới.
Các hình thức tập trung ruộng đất
Hình thức tập trung ruộng đất liên quan đến các mô hình giúp tăng diện tích mảnh ruộng hoặc tạo ra các quy trình canh tác đồng nhất mà không làm thay đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân, tổ chức kinh tế. Tóm tắt các hình thức tập trung ruộng đất được trình bày trong Bảng 1.
|
Các mô hình có chữ in nghiêng được đề xuất lựa chọn để nhân rộng |
Hình thức dồn điền đổi thửa được sử dụng với mục đích trao đổi đất đai giữa các hộ để giảm số thửa mỗi hộ nông nghiệp. Dồn điền đổi thửa không làm thay đổi quyền sử dụng đất của nông dân, nhưng giúp tiết kiệm diện tích bờ thửa và nhất là gắn với quy hoạch giao thông, thủy lợi theo quy hoạch của địa phương, giúp tăng cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của việc tập trung ruộng đất. Dồn điền đổi thửa tập trung chủ yếu vào 2 giai đoạn 2008-2010 và 2012 -2014 chủ yếu đối với đất lúa, và được triển khai tại đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ. Số liệu cho thấy số thửa bình quân của một hộ nông nghiệp đã giảm từ 4,72 thửa năm 2004 xuống còn 2,38 thửa năm 2014. Tuy nhiên, giải pháp này dường như đã đạt tới ngưỡng do giới hạn về diện tích đất nông nghiệp của mỗi hộ và khác biệt trong hệ thống canh tác giữa các hộ. Việc trao đổi đất giữa các hộ vẫn dựa trên cơ sở đất-đổi-đất cũng gây khó khăn cho việc chọn lựa các mảnh đất ngang giá trị để trao đổi. Đồng thời, việc trao đổi đất giữa các hộ cũng bị giới hạn trong cùng xã, phường, thị trấn cũng làm giảm đi các đối tác tiềm năng để nông dân có thể trao đổi các mảnh ruộng.
Hình thức cánh đồng lớn dựa trên việc liên kết chặt giữa doanh nghiệp và nông dân, trong đó doanh nghiệp điều hành sản xuất qua tổ, đội kết hợp với các nhân viên kỹ thuật của doanh nghiệp để hộ nông dân sản xuất cùng quy trình trên diện tích lớn. Hộ nông dân vẫn là người nắm quyền sử dụng đất nông nghiệp, không tạo sức ép về lao động dôi dư. Doanh nghiệp sẽ cung cấp dịch vụ kỹ thuật trên đồng và bao tiêu sản phẩm có chất lượng phân biệt với giá cao hơn mức thông thường. Trên cả nước có gần nửa triệu héc ta đất canh tác theo mô hình cánh đồng lớn, chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng cánh đồng lớn giúp nâng cao thu nhập cho người nông dân trên chính mảnh đất của họ nên dễ huy động sự tham gia của người dân. Đồng thời, hình thức này cũng giúp xây dựng được vùng nguyên liệu ổn định cho doanh nghiệp, kiểm soát được chất lượng nông sản thông liên kết, hợp tác giữa nông dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ diện tích cánh đồng lớn còn thấp, ngay kể cả ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng chỉ đạt 11% tổng diện tích canh tác lúa của vùng. Trong khi đó, việc xây dựng cánh đồng lớn ở Đồng bằng sông Hồng tương đối chậm, với quy mô nhỏ, chủ yếu là trồng các cây trồng hàng năm như lúa, rau, hoa. Khả năng áp dụng của mô hình này bị hạn chế do mối liên hệ giữa nông dân và doanh nghiệp chưa thực sự chặt chẽ, hoặc do người dân phá vỡ hợp đồng khi giá bán bên ngoài cao hơn hoặc do doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc bán đầu vào mà không quan tâm đến thu mua sản phẩm đầu ra cho nông dân. Thêm vào đó, cũng khó để thu hút các doanh nghiệp làm ăn bài bản vì yêu cầu triển khai cánh đồng lớn, ký hợp đồng với nông dân đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu lớn, chi phí vận hành và giám sát quy trình sản xuất của nông dân lớn trong khi rủi ro về thị trường đầu ra của sản phẩm cao, rủi ro của việc nông dân phá vỡ hợp đồng hoặc không tuân thủ đầy đủ quy trình kỹ thuật cao.
Hình thức tập trung ruộng đất thông qua hợp tác xã dựa trên việc hợp tác xã là đầu mối cung cấp dịch vụ nông nghiệp (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, kĩ thuật …) theo tiêu chuẩn cho các xã viên, thống nhất quy trình sản xuất trên quy mô lớn. Hợp tác xã sẽ mua chung vật tư, bán chung nông sản cho các hộ xã viên, đồng thời ký hợp đồng với doanh nghiệp để tiêu thụ nông sản. Người nông dân sẽ canh tác trên chính mảnh đất của mình với công nghệ, kĩ thuật mới, nâng cao hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, một số hợp tác xã đang triển khai việc thuê đất của xã viên và nông dân xung quanh để chỉnh trang lại ruộng đồng, tăng quy mô và hiệu quả sản xuất tốt hơn. Hết năm 2015, cả nước có có 10.902 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng Sông Hồng (33,5%), Bắc Trung Bộ Bắc Trung bộ (19,7%), Đông Bắc bộ (16,9%), Đồng bằng Sông Cửu Long (11,2%). Trung bình mỗi năm cả nước tăng khoảng 250 HTX . Tuy nhiên, số hợp tác xã có thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để đầu tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản còn hạn chế. Mặc dù hình thức này đang được ủng hộ bởi nhiều chủ trương chính sách cùng với việc ban hành Luật Hợp tác xã năm 2012 gần đây, nhưng khả năng phát triển của các hợp tác xã còn hạn chế, đặc biệt trong năng lực quản trị và tiếp cận vốn tín dụng.
Hình thức nông dân tập trung ruộng đất thông qua thuê đất của nông dân khác diễn ra trên cơ sở các nông dân sản xuất giỏi sẽ thuê đất của các nông dân không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cũng xuất hiện hình thức một số nhà đầu tư có vốn mua lại những mảnh ruộng chất lượng thấp, bỏ vốn đầu tư để chỉnh trang đồng ruộng rồi cho nông dân địa phương thuê lại. Dù theo hình thức nào, cách làm này cũng giúp tăng quy mô, đưa ruộng đất đến tay người sử dụng hiệu quả nhất, và qua đó giúp tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Cùng trên cương vị là người nông dân, hình thức này dễ tạo được sự đồng thuận giữa hai bên khi thỏa thuận thuê đất và làm thủ tục, trên cơ sở người cho thuê ruộng có khả năng kiếm việc làm phi nông nghiệp. Người nông dân cho thuê ruộng vẫn giữ được quyền sử dụng đất của mình mà đất nông nghiệp lại không bị bỏ hoang, tránh lãng phí tài nguyên của xã hội. Thêm vào đó chi phí thuê đất nông nghiệp rẻ hơn rất nhiều so với chi phi mua đất nông nghiệp . Đây là một hình thức mang đến cả hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội đồng thời khả năng áp dụng và nhân rộng lại cao vì khung pháp lý cho hoạt động này cũng đã tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, năm 2014 tỷ lệ hộ cho thuê đất nông nghiệp rất thấp, chỉ ở mức 10,5% và tỷ lệ đất nông nghiệp cho thuê dưới mức 5%; thậm chí việc cho thuê đất phần lớn chỉ giới hạn trong gia đình, họ hàng. Tỷ lệ hộ gia đình cho thuê cao nhất là ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long . Khó khăn lớn nhất là người đi thuê đất phải đàm phán với nhiều hộ nông nghiệp để có quy mô đủ lớn do đặc thù đất đai nước ta khá manh mún và thường gặp phải rủi ro vỡ hợp đồng khi người cho thuê đòi lại đất. Về phía người cho thuê đất, cơ hội kiếm việc làm phi nông nghiệp vẫn còn hạn chế nên nguồn cung cho thuê bị giới hạn. Về phía cầu đi thuê đất, người nông dân với đặc điểm nguồn lực về vốn hạn chế nên chi phí để thuê đất quy mô lớn vẫn còn tương đối cao trong khi chưa có cơ chế để họ có thể thế chấp đất thuê, tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh.
Hình thức doanh nghiệp tập trung ruộng đất thông qua thuê đất của nông dân. Doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh và sản xuất hàng hóa nông nghiệp quy mô lớn mà chưa có vùng nguyên liệu ổn định sẽ đứng ra ký hợp đồng thuê đất với các hộ nông dân không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp để tập trung thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung. Doanh nghiệp với tiềm lực của mình có thể áp dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa, chủ động được vùng nguyên liệu để đầu tư đồng bộ đảm bảo yêu cầu về chất lượng của hàng hóa nông nghiệp. Tương tự như hình thức nông dân thuê đất của nông dân thì chi phí của hình thức này cũng tương đối thấp. Thủ tục để thuê đất của người dân thì tương đổi đơn giản, người nông dân vừa giữ được quyền sử dụng đất của mình vừa có thêm thu nhập. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp thuê đất nông nghiệp còn thấp hơn cả mức độ hộ nông dân thuê đất nông nghiệp của hộ nông dân. Một phần là do tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp của Việt Nam tương đối thấp (chiếm tỷ lệ chưa tới 1% so với tổng số doanh nghiệp trên cả nước). Đồng thời, doanh nghiệp đi thuê đất phải làm thủ tục hợp đồng với quá nhiều đối tượng với những điều kiện và yêu cầu khác nhau để đạt được một diện tích đủ lớn, gây tốn kém và rủi ro cho doanh nghiệp. Chi phí đầu tư tương đối lớn mà doanh nghiệp lại không thể thế chấp được đất thuê. Đồng thời, chưa có khung pháp lý và chính sách đủ mạnh để phát triển các tổ chức trung gian nào ví dụ như một doanh nghiệp công ích của Nhà nước đứng ra thuê đất của nông dân rồi cho doanh nghiệp khác thuê lại .
Hình thức doanh nghiệp thuê đất của địa phương hoặc nông lâm trường quốc doanh cũ. Đối với hình thức này doanh nghiệp sẽ lập dự án sản xuất kinh doanh nông nghiệp được cơ quan chính quyền địa phương chấp thuận và cho thuê đất để sản xuất kinh doanh tại địa phương. Nguồn đất cho thuê của địa phương chủ yếu là đất công ích và đất nông lâm trường quốc doanh trả về địa phương. Hình thức cho doanh nghiệp thuê đất nông lâm trường quốc doanh cũ để sản xuất kinh doanh phần lớn tập trung ở Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên nơi có diện tích đất nông lâm trường quốc doanh cũ trả về cho địa phương cao nhất. Doanh nghiệp sẽ an tâm đầu tư dài hạn, bài bản, tăng cường áp dụng cơ giới hóa và khoa học công nghệ vì được thuê với thời gian tương đối dài, thường là 20 – 50 năm. Doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh sẽ sử dụng nguồn lao động tại địa phương làm giảm lượng lao động dôi dư của địa phương. Khả năng áp dụng của hình thức này phụ thuộc nhiều vào tính rõ ràng trong hồ sơ của mảnh đất thuộc quyền quản lý của nông lâm trường quốc doanh cũ và kèm theo đó là khả năng xảy ra tranh chấp giữa người dân địa phương và doanh nghiệp dự định thuê lại đất để đầu tư. Đối với quỹ đất công ích 5% của địa phương, một hạn chế nữa là quy định của Luật Đất đai chỉ cho phép cá nhân, tổ chức thuê trong thời hạn 5 năm nên bên thuê cũng rất khó khi bỏ vốn đầu tư bài bản trong dài hạn.
Các hình thức tích tụ ruộng đất
Hình thức tích tụ ruộng đất liên quan đến các mô hình giúp tăng diện tích của các hộ gia đình hoặc tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp từ các cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc qua các mô hình góp vốn bằng quyền sử dụng đất có chuyển quyền sử dụng đất giữa nông dân với doanh nghiệp. Tóm tắt các hình thức tích tụ ruộng đất được trình bày trong Bảng 2.
|
Các mô hình có chữ in nghiêng được đề xuất lựa chọn để nhân rộng |
Hình thức nông dân tích tụ ruộng đất thông qua nhận chuyển nhượng đất của nông dân khác trong điều kiện có những người nông dân giỏi, có năng lực tài chính lựa chọn hình thức mua đứt bán đoạn các mảnh đất xung quanh khu đất của mình qua từng năm để hình thành quy mô đủ lớn. Hiệu quả kinh tế của hình thức này tương đối cao do các nông dân sản xuất giỏi sẽ chủ động tích tụ đất, áp dụng khoa học kĩ thuật và cơ giới hóa trong dài hạn để nâng cao hiêu quả sản xuất. Thêm vào đó, họ nắm giữ quyền sử dụng đất nên có thế chấp vay vốn các tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh.
Trên cả nước, quy mô và tốc độ chuyển nhượng đất nông nghiệp trong tổng số mảnh đất nông nghiệp vùng Đông Nam Bộ là cao nhất cả nước trong giai đoạn 1994 -2003 tuy nhiên đến sau năm 2003 thì tỷ lệ chuyển nhượng đất tại khu vực vực này giảm mạnh tụt xuống vị trí thứ hai sau vùng Tây Nguyên. Giai đoạn 1994-2003 là giai đoạn tăng mạnh về giao dịch đất nông nghiệp thông qua hình thức chuyển nhượng nhưng sau năm 2003 thì mức độ bắt đầu giảm xuống. Cản trở chính của hình thức tích tụ ruộng đất này là nguồn cung đất hạn chế khi lao động nông nghiệp dôi dư còn tương đối cao.
Đồng thời, nguồn vốn của hộ nông dân đi mua đất cũng hạn chế nên phải mất một thời gian dài thì mới tích tụ được diện tích quy mô lớn lớn. Trong khi đó, khung pháp lý hiện tại vẫn còn nhiều hạn chế khi đặt ra hạn mức nhận chuyển nhượng, quy định đối tượng nhận chuyển nhượng đối với đất lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và thuế chuyển nhượng đất nông nghiệp cao tương đương như các bất động sản khác.
Hình thức doanh nghiệp tích tụ ruộng đất thông quan nhận vốn góp của nông dân bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp. Theo hình thức này thì người nông dân vừa giữ được quyền sử dụng đất của mình vừa được tăng thêm thu nhập từ tiền cổ tức hàng năm theo cổ phần quy đổi về giá trị quyền sử dụng đất của người nông dân khi doanh nghiệp có lãi. Nếu người nông dân có nhu cầu làm việc sẽ được doanh nghiệp ưu tiên nhận vào làm công nhân. Về phía doanh nghiệp sẽ có quỹ đất đủ lớn để đầu tư bài bản, khoa học công nghệ và cơ giới hóa nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm chi phí. Trên địa bàn cả nước mới chỉ có một vài mô hình đang thực hiện thí điểm về việc nông dân góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, ví dụ như mô hình góp đất trồng cao su ở Sơn La, Lai Châu; mô hình góp đất của nông dân xã Vân Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Tuy nhiên, hình thức này hiện chưa đạt được hiệu quả cao do chưa rõ ràng trong việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất hay giá trị quyền sử dụng đất. Người nông dân lo ngại việc sẽ mất quyền sử dụng đất của mình khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp không thể thế chấp quyền sử dụng đất cũng như vốn hóa giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn đầu tư sản xuất. Đồng thời, doanh nghiệp cũng vấp phải rủi ro trong quá trình quản lý và hoạt động của công ty do có rất nhiều các cổ đông là nông dân. Khả năng áp dụng của hình thức này hiện nay rất thấp do khó có một khung pháp lý đồng bộ cho các hợp đồng góp vốn của doanh nghiệp và sự phối hợp của nông dân và doanh nghiệp trong khâu quản lý doanh nghiệp rất hạn chế.
Hình thức doanh nghiệp tích tụ ruộng đất thông qua nhận chuyển nhượng đất của nông dân diễn ra khi doanh nghiệp nhận chuyển nhượng đất của nhiều hộ nông dân trong cùng một vùng liền kề với nhau để tạo ra một vùng nguyên liệu tập trung. Doanh nghiệp sẽ có một vùng nguyên liệu ổn định để đầu tư dài hạn, có thể sử dụng quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Đặc biệt từ khi có Nghị Định 01/2017/NĐ-CP thì doanh nghiệp không phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước khi nhận chuyển nhượng của hộ khi lập dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp trên đất nhận chuyển nhượng của hộ nông nghiệp. Về phía nông dân thì có thêm một khoản tài chính đề đầu tư chuyển đổi nghề nghiệp khi thấy nghề nông đã không còn đem lại hiệu quả kinh tế cao đối với họ.
Tuy nhiên, doanh nghiệp thường không chủ động mua đất nông nghiệp của hộ để sản xuất quy mô lớn vì giá mua đất nông nghiệp cao nên khó tạo ra lợi nhuận đủ hấp dẫn so với số vốn bỏ ra ban đầu để mua đất nếu chỉ sản xuất nông nghiệp. Không chỉ về vấn đề giá mà còn về vấn đề thỏa thuận giá với mỗi người dân để hình thành quy mô đất đủ lớn quá phức tạp và tốn thời gian nên hình thức này vẫn chưa phổ biến. Về phía người dân, vấn đề lớn nhất là phải tạo được việc làm và sinh kế mới cho hàng loạt hộ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp cho doanh nghiệp trên quy mô lớn.
Kết luận và đề xuất
Tích tụ, tập trung đất nông nghiệp phải đạt được mục tiêu phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tăng hiệu quả sử dụng đất với những quy mô và hình thức sản xuất phù hợp, gắn chặt với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động – việc làm trong nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, việc lựa chọn hình thức và giải pháp để thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp cũng không chỉ nên dựa trên những thực tiễn của quá khứ và hiện tại, mà còn phải gắn với tầm nhìn và mục tiêu trong tương lai của phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung trong vòng 10-15 năm tới, có tính tới việc giảm thiểu tổn phí trong hiện tại một cách hợp lý.
Trong tương lai, Việt Nam cần xây dựng được nền nông nghiệp hiện đại, mức độ thương mại hóa cao, có năng lực cạnh tranh quốc tế cao, dựa trên các hình thức sản xuất có quy mô lớn và tập trung hơn: gia trại, trang trại, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Trong quá trình này, nhất định cần tính tới việc chuyển dịch lao động nông nghiệp dôi dư sang các ngành nghề phi nông nghiệp hoặc ở nông thôn hoặc tham gia lực lượng lao động đô thị. Đồng thời, cần có sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp với năng lực về vốn, thị trường và KHCN. Đây là lực lượng tiên phong để phát triển ngành kinh doanh nông nghiệp hiện đại, đặc biệt là để phát triển các ngành công nghiệp – dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp.
Điều này không chỉ giúp tạo thêm nhiều giá trị gia tăng mà còn tạo ra việc làm đáng kể cho lao động nông nghiệp dôi dư. Kèm theo quá trình này cần xem xét việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các cụm liên ngành tại các vùng chuyên canh nông nghiệp, khu/cụm công nghiệp – dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, các công viên nông nghiệp xanh, sạch cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch cho đô thị, các trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp tại địa bàn cơ sở ở nông thôn. Điều này đòi hỏi phải tính tới việc tăng kết nối nông thôn – đô thị, tăng liên kết các khu/cụm/công viên/trung tâm công nghiệp – dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp với vùng nông thôn. Đồng thời, cần đảm bảo quyền tài sản trên đất của những nhà đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Dựa trên việc đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội, tính khả thi của các hình thức tích tụ, tập trung đất nông nghiệp và đối chiếu với tầm nhìn tương lai của nông nghiệp Việt Nam, bài viết xin đề xuất định hướng ưu tiên, đổi mới khung pháp lý và chính sách hỗ trợ cho tích tụ, tập trung đất nông nghiệp trong 10-15 năm tới tại Việt Nam như sau:
Định hướng ưu tiên
- Nhất định phải tăng tích tụ ruộng đất theo hình thức gia trại, trang trại. Lấy đây làm lực lượng nòng cốt để tổ chức hệ thống hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã. Việc làm này vừa giúp tăng quy mô, vừa tránh được những hệ lụy như hình thành tầng lớp địa chủ mới, phát canh thu tô, tránh được tiêu cực phát sinh khi hỗ trợ doanh nghiệp thu hồi đất của dân.
- Trong giai đoạn quá độ của phát triển kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác, phải rất cẩn trọng đối với việc doanh nghiệp nhận chuyển nhượng hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của hộ nông dân. Thay vào đó, nên tập trung thúc đẩy thị trường thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp và hợp tác xã để hình thành liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp.
- Tích tụ, tập trung ruộng đất phải tuân thủ đầy đủ các quy hoạch, hướng tới xây dựng phát triển nền nông nghiệp hiện đại, tăng hiệu quả sử dụng đất với những quy mô và hình thức sản xuất phù hợp, gắn chặt với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động – việc làm trong nông nghiệp, nông thôn. Cần có định hướng khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các khu/cụm/công viên/trung tâm công nghiệp – dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp thông qua việc thuê đất nông nghiệp hoặc liên kết với trang trại, hợp tác xã. Kèm theo đó, cần có định hướng phát triển đô thị ở các cấp và mức độ kết nối với kinh tế nông thôn, định hướng phát triển hạ tầng kết nối nông thôn – đô thị, kết nối vùng.
- Tích tụ, tập trung đất nông nghiệp phải gắn với nhu cầu của thị trường và năng lực sản xuất từng vùng từng khu vực từng địa phương. Cần có nhiều hình thức phù hợp bảo đảm hài hòa lợi ích của các đối tượng tham gia.
Đề xuất sửa đổi khung pháp lý
- Bỏ hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ gia đình tại Điều 130 Luật Đất đai 2013. Sử dụng hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay làm hạn mức đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến.
- Giảm thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp tại Luật sửa đổi các Luật về thuế năm 2014.
- Nới lỏng quy định cho phép cá nhân không phải hộ nông nghiệp hoặc không sống cùng địa bàn được nhận chuyển nhượng đất lúa và đất rừng phòng hộ tại Điều 191 Luật Đất đai 2013.
- Quy định tăng diện tích đất tối thiểu để trách hộ tách thửa thông qua thừa kế đất nông nghiệp.
- Nâng thời hạn thuê đất công ích của xã từ 5 năm lên 20 năm và thu tiền 5 năm một lần tại Khoản 5 Điều 126 Luật Đất đai 2013 để cá nhân, tổ chức kinh tế khi thuê đất yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh quy mô lớn.
- Trường hợp doanh nghiệp thuê đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân mà đã trả tiền thuê đất từ 10 năm trở lên thì được thế chấp đất thuê với giá trị bằng tiền thuê đất đã trả.
- Tách riêng ra 3 loại đất khỏi đất nông nghiệp khác bao gồm: đất làm chuồng trại chăn nuôi; đất nông nghiệp công nghệ cao; đất phát triển dịch vụ nông nghiệp. Bổ sung định nghĩa và chế độ sử dụng đất đối với 3 loại đất này.
- Xây dựng quy định bổ sung thêm loại đất phục vụ mục đích hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trong phân loại đất nông nghiệp tại Điều 10 Luật Đất đai 2013. Đối với diện tích này, cho phép xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động trước và sau sản xuất nông nghiệp (như xưởng thiết bị nông nghiệp, logistics, chế biến, lưu trữ, bảo quản nông sản) trên đất nông nghiệp, diện tích được phép chuyển đổi tương ứng với sản lượng tạo ra từ vùng chuyên canh xung quanh và theo quy hoạch.
- Theo Luật Đất đai hiện hành, việc chuyển mục đích sử dụng đất làm mất ruộng lúa và ruộng trồng cây hàng năm khác phải được phép của UBND, đất lúa tùy theo diện tích còn phải được sự đồng ý của Thủ tướng hoặc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Cần sửa đổi lại quy định về việc phải xin phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp nói trên chỉ áp dụng đối với đất lúa 2 vụ trở lên.
Đề xuất chính sách hỗ trợ
- Xây dựng trung tâm hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp, thực hiện chức năng cung cấp thông tin, hỗ trợ định giá, thiết kế hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong quá giao dịch đất đai giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế. Đây là nền tảng ban đầu để xây dựng thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp và phát huy quyền tài sản đối với đất nông nghiệp trong tương lai.
- Hỗ trợ nâng cao năng lực cho hợp tác xã và khởi nghiệp nông thôn. Hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ hạ tầng, trang thiết bị cho trang trại, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuê đất của nông dân
- Có cơ chế ưu đãi đặc biệt cho doanh nghiệp xây dựng cánh đồng lớn. Khuyến khích hình thức nông dân mua cổ phần trong các doanh nghiệp có hợp đồng với nông dân trong cánh đồng lớn hoặc thuê đất của hộ nông dân
- Hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm cho lao động dôi dư trong quá trình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp. Tạo điều kiện vốn hóa đất đai, tài sản và phát triển bảo hiểm xã hội cho những nông dân rời bỏ nông nghiệp tham gia vào lĩnh vực phi nông nghiệp tại nông thôn và đô thị. Đổi mới các chương trình đào tạo nghề nông thôn, huy động sự tham gia của doanh nghiệp thuê lao động, theo nhu cầu của doanh nghiệp sử dụng lao động.
Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Nguyễn Anh Phong Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn