Trẻ vào Bệnh viện Nhi Trung ương (Hà Nội) trong tình trạng li bì, co giật, tím môi và ngừng thở, có nguy cơ tử vong cao. Qua khai thác bệnh sử, gia đình cho biết trước đó, trẻ không bị ngã, chấn thương, chưa co giật lần nào.
Trẻ có thể bị hội chứng rung lắc vì thói quen đung đưa khi bế của gia đình. Ảnh: Freepik.
ThS.BS Ngô Tiến Đông, khoa Điều trị tích cực Nội khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương, cho biết kết quả thăm khám lâm sàng và siêu âm thóp, nghi ngờ trẻ tổn thương thần kinh.
Để xác định chính xác tổn thương, bệnh nhi được tiến hành chụp cộng hưởng từ (MRI) sọ não, soi đáy mắt, kết quả cho thấy trẻ bị tụ máu dưới não hai bên và liềm đại não, phù não lan tỏa kèm xuất huyết võng mạc, phù gai thị, nghi do hội chứng rung lắc.
Nguy kịch vì thói quen thường ngày
Sau khi được xử trí ban đầu tại khoa Cấp cứu và Chống độc, trẻ được chuyển đến điều trị tại khoa Điều trị tích cực Nội khoa. Tại đây, bệnh nhi ngay lập tức được cho thở máy, cắt cơn co giật và điều trị tăng áp lực nội sọ, đồng thời sử dụng thuốc trợ tim, vận mạch, kiểm soát rối loạn điện giải, sốt, nhiễm trùng.
Sau 7 ngày điều trị, trẻ cai được máy thở, dấu hiệu sinh tồn ổn định, tuy nhiên vẫn còn di chứng tăng trương lực cơ, giảm ý thức, nguy cơ cao sẽ để lại di chứng thần kinh lâu dài, gây ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển não bộ, tương tác xã hội và chất lượng cuộc sống của trẻ, gia đình.
Bác sĩ Ngô Tiến Đông, khoa Điều trị tích cực Nội khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương đang thăm khám cho bệnh nhi. Ảnh: BVCC.
Theo bác sĩ Ngô Tiến Đông, hội chứng rung lắc là chấn thương não nghiêm trọng xảy ra ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ khi bị rung lắc mạnh.
Hội chứng này xảy ra phổ biến ở trẻ nhỏ dưới một tuổi, đặc biệt trong giai đoạn 2-4 tháng tuổi, bởi đó là thời điểm trẻ có xu hướng quấy khóc thường xuyên và kéo dài, gia đình hay bế đung đưa. Trẻ dưới 5 tuổi cũng có thể bị ảnh hưởng.
Nguyên nhân dẫn đến hội chứng này là thói quen bế con rung lắc nhằm mục đích dỗ con bớt quấy khóc, thói quen đưa võng, lắc nôi ru trẻ ngủ, hoặc những động tác làm thay đổi đột ngột tư thế như bế trẻ lên cao, bế thốc dậy, tung cao trẻ…
"Trẻ có thể gặp nguy hiểm dù chỉ với 5 giây rung lắc", bác sĩ Đông nói.
Ở trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trọng lượng đầu chiếm khoảng 10-15% trọng lượng cơ thể. Ở độ tuổi này, trẻ có cơ cổ rất yếu không đủ sức nâng đỡ đầu vốn có kích thước tương đối lớn, não bộ chưa phát triển nhiều, nằm “trôi nổi” trong môi trường dịch não tủy bao bọc xung quanh.
Rung lắc mạnh, gây ra sự tăng - giảm tốc nhanh chóng của não, tác động va đập vào bề mặt cứng bên trong hộp sọ, làm tổn thương não và các mạch máu não, phù não và tăng áp lực nội sọ của trẻ.
Di chứng kéo dài
Theo thống kê của Trung tâm Quốc gia về hội chứng rung lắc trẻ em, tại Mỹ ước tính có 1.000-1.300 trường hợp được ghi nhận mỗi năm. Trong các trường hợp ghi nhận được, 1/4 số trẻ tử vong, 80% trẻ sống bị tổn thương vĩnh viễn như bại não, liệt, mất thị lực, thiểu năng trí tuệ, động kinh.
Các biểu hiện của hội chứng này rất đa dạng và khó phát hiện, dễ nhầm lẫn với các bệnh khác. Thời gian khởi phát bệnh có thể ngay sau khi rung lắc, hoặc sau một khoảng thời gian khi trẻ quấy khóc, nôn nhiều, bú kém, nhịp thở bất thường, lì bì, co giật, hoặc hôn mê.
Trong một số trường hợp, hội chứng rung lắc nhẹ, trẻ có thể không biểu hiện triệu chứng ngay, nhưng một thời gian sau có thể gặp phải những vấn đề liên quan đến chậm phát triển tinh thần vận động.
Bác sĩ Ngô Tiến Đông cho biết bởi biểu hiện dễ nhầm lẫn với các bệnh khác, nên có thể nhiều trường hợp trẻ tổn thương do hội chứng này bị bỏ sót.
Có nhiều trẻ chỉ biểu hiện quấy khóc, li bì 1-2 ngày rồi vẫn ăn ngủ bình thường, gia đình sẽ không nghi ngờ trẻ bị hội chứng rung lắc. Sau này lớn lên, trẻ mới dần có biểu hiện của bại não, thị lực kém, chậm phát triển, lúc đó rất khó biết được căn nguyên và rất muộn để can thiệp, điều trị được.
Do đó, khi trẻ xuất hiện những dấu hiệu nghi ngờ tổn thương não bởi hội chứng rung lắc, phụ huynh nên:
Nhanh chóng gọi xe cứu thương đến bệnh viện gần nhất để được thăm khám và điều trị kịp thời.
Hạn chế bế xốc hay rung lắc thêm để gọi trẻ tỉnh lại, không cho trẻ ăn hoặc uống nước trước khi có cấp cứu hỗ trợ.
Nếu trẻ ngừng thở, phụ huynh cần chủ động thực hiện hô hấp nhân tạo. Trong một số trường hợp, trẻ có thể bị nôn trớ, để tránh bị sặc, hãy nhẹ nhàng đặt nghiêng đầu và người trẻ theo một trục đồng nhất (nếu có chấn thương cột sống, phương pháp này sẽ giúp giảm nguy cơ tổn thương thêm).
Khi chăm sóc trẻ, phụ huynh tuyệt đối không thực hiện những động tác xoay chuyển đầu trẻ một cách đột ngột như: rung lắc nôi đối với trẻ nhỏ; bế thốc ngược; xốc vác trẻ gấp gáp; tung hứng trẻ khi nô đùa; tát, đánh vào tai, vào đầu, vào mặt trẻ.
"Mặc dù hội chứng rung lắc ở trẻ nguy hiểm, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa được", bác sĩ Đông cho biết.
Theo Nguyễn Thuận/ Znews