Không phải bệnh mà là tình trạng đặc thù
Mặc dù chứng khó nuốt có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng nó đặc biệt phổ biến ở người lớn tuổi. Chứng khó nuốt có thể do rối loạn thần kinh, bệnh thoái hóa, ung thư hoặc chấn thương sau đặt nội khí quản.
Việc quản lý dinh dưỡng cho chứng khó nuốt bao gồm việc điều chỉnh độ đặc và kết cấu của thức ăn và chất lỏng tùy theo khả năng dung nạp của bệnh nhân. Đội ngũ chăm sóc sức khỏe bao gồm bác sĩ, kĩ thuật viên phục hồi chứng năng và chuyên gia dinh dưỡng có vai trò đối với những người bệnh khó nuốt.
Các mục tiêu điều trị bao gồm việc điều chỉnh chế độ ăn uống và luyện tập lại khả năng nuốt. Cần có kế hoạch bữa ăn dành riêng cho từng cá nhân giúp tối ưu hóa chất lượng dinh dưỡng hấp thụ đồng thời giảm nguy cơ sặc hoặc nghẹt thở.
Sàng lọc nguy cơ rối loạn nuốt
Tình trạng khó nuốt là sự suy giảm ở một hoặc tất cả các giai đoạn nuốt, dẫn đến giảm khả năng nhận được đủ dinh dưỡng bằng đường miệng và có thể làm giảm tính an toàn khi cho ăn bằng đường miệng.
Bệnh nhân mắc chứng khó nuốt gặp khó khăn khi di chuyển thức ăn từ trước ra sau miệng, đưa thức ăn vào thực quản hoặc cả hai quá trình. Nếu nghi ngờ có chứng khó nuốt, việc đánh giá khả năng nuốt phải được thực hiện bởi các xét nghiệm chức năng chuyên biệt.
Đánh giá này có thể bao gồm đánh giá hoạt động nuốt tại giường, soi thanh quản gián tiếp hoặc nghiên cứu nuốt qua video nội soi huỳnh quang (VFSS). VFSS được coi là công cụ chẩn đoán ưu tiên cho chứng khó nuốt vì nó xác định bất kỳ vấn đề về cấu trúc và chức năng nào có thể xảy ra với các loại thực phẩm và chất lỏng có độ đặc khác nhau và loại trừ chế độ ăn uống không phù hợp.
Khuyến cáo về đường nuôi dưỡng đối với bệnh nhân
Chế độ ăn cho người bệnh khó nuốt cần được lên kế hoạch kĩ lưỡng để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng riêng biệt. Có thể cần phải cho ăn qua đường sonde để bổ sung lượng thức ăn cho đến khi khẩu phần ăn đáp ứng nhu cầu năng lượng.
Nếu dinh dưỡng qua đường ruột do chứng khó nuốt thần kinh được dự đoán sẽ kéo dài hơn 4 tuần, thì mở thông dạ dày qua nội qua da (PEG) sẽ thích hợp hơn ống thông mũi dạ dày (NGT). Ống PEG cải thiện tình trạng dinh dưỡng, ít bị thất bại trong điều trị hơn so với NGT, đồng thời chúng cho phép bệnh nhân nhận đủ dinh dưỡng trong khi lượng ăn vào được ổn định.
Trong một nghiên cứu, hơn một nửa số bệnh nhân được đặt ống PEG do khả năng dung nạp thức ăn đặc kém cuối cùng đã có thể tiếp tục cho ăn bằng đường miệng. Nếu bệnh nhân có thể dung nạp được chất lỏng qua đường uống thì thực phẩm bổ sung y tế phải tuân theo độ đặc được quy định cho bệnh nhân.
Việc ghi lại lượng thức ăn ăn vào, bao gồm lượng chất lỏng và thức ăn qua đường ruột, là cần thiết ở tất cả các giai đoạn điều trị chứng khó nuốt. Khi lượng ăn qua đường miệng đạt đến nhu cầu về năng lượng và protein, bệnh nhân nên bắt đầu dừng truyền dinh dưỡng qua đường ruột.
Nhận thức được gánh nặng tâm lý và xã hội của chứng khó nuốt, việc tạo ra phương pháp điều trị cá nhân hóa và cung cấp hỗ trợ ăn uống có thể góp phần tăng lượng thức ăn ăn vào và duy trì cân nặng ở người lớn tuổi.
Chế độ dinh dưỡng cho người bệnh mắc chứng rối loạn nuốt
Chuyên gia dinh dưỡng và kĩ thuật viên phục hồi chức năng nên hợp tác và sử dụng kết quả từ cả đánh giá y tế và nghiên cứu về nuốt để lựa chọn thực phẩm và đồ uống thích hợp cho từng bệnh nhân. Trước khi cho ăn bằng đường miệng lần đầu, phải có đánh giá xác định rằng bệnh nhân chắc chắn có thể ăn được.
Chuyên gia dinh dưỡng xác định độ đặc thích hợp của thức ăn và chất lỏng cho bệnh nhân cả trước khi bắt đầu cho ăn ở những lần cho ăn tiếp theo. Độ đặc của thức ăn và chất lỏng nên được thay đổi khi bệnh tiến triển.
Độ đặc của thực phẩm thay đổi theo giai đoạn tiến triển của bệnh nhân rối loạn nuốt.Độ đặc của thực phẩm thay đổi theo giai đoạn tiến triển của bệnh nhân rối loạn nuốt.
Mức độ nghiêm trọng của chứng khó nuốt quyết định mức độ ăn cần thiết. Kế hoạch ăn uống được chia thành nhiều cấp độ gồm thức ăn đặc và lỏng để tối đa hóa lượng dinh dưỡng đưa vào cho bệnh nhân khó nuốt. Ba cấp độ:
Cấp độ 1: Chứng khó nuốt xay nhuyễn: Thực phẩm đặc, mịn và có độ ẩm giống như bánh pudding mà không có bã hoặc các mảnh thức ăn nhỏ. Chúng bám vào nhau, dễ nuốt và cần ít thao tác trong miệng. Thức ăn dính hoặc thức ăn đòi hỏi phải tạo thành khối hoặc thao tác miệng có kiểm soát (ví dụ như phô mai tan chảy và bơ đậu phộng) sẽ được bỏ qua. Chế độ ăn kiêng không cung cấp kết cấu thô (ví dụ: thực phẩm dạng sợi) để ngăn ngừa kích ứng. Lượng thức ăn và chất lỏng nên được theo dõi.
Thức ăn xay nhuyễn, đồng nhất, độ kết dính cao cho cấp độ 1
Cấp độ 2: Thức ăn ẩm, mềm, dễ nhai và dễ dàng tạo thành một khối kết dính. Chế độ ăn cung cấp sự chuyển đổi từ thực phẩm xay nhuyễn sang thực phẩm dễ nhai. Bao gồm các loại thịt xay đã được làm ẩm (miếng không được vượt quá hình khối 0.5cm), rau được nấu chín đến độ mềm có thể nghiền được, trái cây nấu chín mềm hoặc đóng hộp và chuối. Cho ăn thường xuyên hơn có thể có lợi. Lượng thức ăn và chất lỏng nên được theo dõi.
Thức ăn mềm độ kết dính vừa phải cho cấp độ 2
Cấp độ 3: Chứng khó nuốt thuyên giảm: Thức ăn ẩm, mềm, dạng miếng vừa ăn và có kết cấu gần như đều đặn. Loại trừ các loại thực phẩm cứng, dính và giòn.
Cơm mềm thức ăn mềm, thức ăn đa dạng gần như chế độ ăn thông thường
ThS.BS Phạm Thị Lan Phương (Khoa Dinh Dưỡng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức)
ThS.BS Phạm Thị Lan Phương