Ông vua hay chữ nhưng ốm yếu
Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà. Hoàng thân quốc thích và bá quan văn võ họp tại điện Cần Chánh. Đại học sĩ Trương Đăng Quế tuyên đọc ý chỉ lập hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm lên làm vua. Di chiếu chưa đọc xong, người con cả là Hồng Bảo phẫn uất thổ huyết ra một đấu, nằm ngã vật ngay giữa sân điện. Hồng Bảo không chịu tin đó là ý chỉ của vua cha, mà cho rằng Trương Đăng Quế đã sửa đi.
Vua Thiệu Trị từng nói, Hồng Bảo tuy là con lớn, nhưng người thô kệch, ham chơi, ít chịu học. Còn Hồng Nhậm sáng dạ, chăm đọc sách nên được vua cha yêu hơn. Ngay từ nhỏ Hồng Nhậm thường được vua cha cho vào chầu riêng để dạy bảo thêm. Hồng Nhậm lên ngôi năm 19 tuổi, lấy niên hiệu là Tự Đức.
Tự Đức có dáng người nho nhã, điềm tĩnh, nhưng thể trạng ốm yếu. Suốt đời ông ở kinh thành Huế, chỉ có một lần duy nhất đi xa theo cha ra Bắc Hà năm 13 tuổi. Quả thực, ông là người đọc nhiều sách, là một vị vua hay chữ và uyên bác nhất triều Nguyễn. Ông lại là người chăm chỉ, có ý thức trách nhiệm của một vị vua đối với "con dân", với nước. Ông mong xây dựng đất nước "quốc thái dân an" như thời vua Nghiêu, vua Thuấn thời cổ đại. Cách sống và ứng xử của ông cũng tuân thủ khuôn mẫu của lễ giáo xưa.
Ít có một vị vua nào hiếu thảo với mẹ như vua Tự Đức. Cũng thật may mắn là Thái hậu Từ Dũ mẹ ông là một bà mẹ hiền thục, hiểu biết và có lòng nhân ái thương dân. Bà sống rất giản dị, không muốn phô trương. Triều đình muốn làm lễ tôn vinh hay mừng thọ bà, bà đều gạt đi. Từ tấm áo, cái quạt còn dùng được bà không cho phép bỏ đi thay bằng cái mới.
Vua Tự Đức tự quy định, hằng tháng ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn thì vào chầu Thái hậu. Thành thử, mỗi tháng dù công việc bận bịu đến đâu nhà vua cũng chỉ thiết triều cùng các quan nghị sự có 15 ngày! Nhà vua thường mang việc triều đình bẩm tấu với mẹ. Vua ghi lại những lời khuyên của Thái hậu thành tập "Từ huấn lục".
|
Tranh minh họa. |
Giỏi văn nhưng kém hiểu biết về quân sự
Tự Đức từng bị bệnh đậu mùa, thân thể suy nhược, hầu như rất ít tiếp xúc với bên ngoài, nên không hiểu được đời sống dân tình cũng như thời thế các nước trên thế giới. Nhà vua thường đọc sách tới tận khuya. Ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ: 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm. Ông còn tự tay sửa chữa, biên tập một số tích tuồng dân gian. Nhà vua cho mở Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để bàn luận về thơ phú, lịch sử và chính trị với các nhà văn, nhà thơ. Ông chỉ đạo Quốc sử quán biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục... và viết nhiều "ngự phê" cho bộ sử lớn này.
Nhưng về mặt quân sự, nhà vua lại kém hiểu biết nên rất ít quan tâm đầu tư. Lực lượng quân đội mỏng, vũ khí khí tài lạc hậu, quân lương không đủ.
36 năm trị vì của Tự Đức là thời kỳ đất nước trải qua nhiều biến động lớn. Trong nước, dân đói kém, mất mùa, các cuộc khởi nghĩa nổi lên khắp nơi. Người anh là Hồng Bảo không được lên làm vua nổi lên làm phản. Ở Bắc Kỳ có tới 40 cuộc nổi dậy của nông dân. Cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Phụng và của quân Châu Chấu ở Mỹ Lương có quy mô rất lớn. Quân Chầy Vôi nổi loạn ngay tại kinh thành. Ngoài ra, còn có cả giặc Khách từ Trung Quốc tràn qua cướp phá và nguy cơ mất nước về tay thực dân Pháp.
(Còn nữa...)
Dĩ Nguyên