Theo sách "Đại Việt sử ký toàn thư", vua Hàm Nghi là vị hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông lên ngôi khi 13 tuổi, giữa lúc triều đình bị thực dân Pháp o ép đủ bề. 15 tuổi, ông đã có ý thức chống thực dân Pháp. Và cũng chính ông vua trẻ này là người đã phát hịch Cần Vương hô hào nhân dân cả nước nổi dậy chống thực dân Pháp.
Theo sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục", Ưng Lịch là em của Ưng Đường và Ưng Đăng. Hai anh được vua Tự Đức nhận làm con nuôi để sau này nối nghiệp. Sống trong cảnh dân dã nên Ưng Lịch được thoải mái vui chơi ngoài cung cấm. Hôm ấy, Ưng Lịch đang đùa vui ngoài đường cùng các bạn thì được một đại thần trong triều đưa kiệu đến đón về... làm vua!
Việc cậu bé 13 tuổi được chọn lên ngôi là do tính toán của hai vị đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Chẳng thế mà sau khi vua Tự Đức mất, hai ông đã cố xoay xở dựng nên ba vua (Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi) trong vòng một năm, nhưng đều không được như ý. Vua Hiệp Hòa khi lên ngôi ở tuổi 36 và bị ép phải ký kết hiệp ước bất lợi cho đất nước. Rút kinh nghiệm từ vua Hiệp Hòa, hai ông được sự đồng ý của Hoàng thái hậu Từ Dũ đã chọn Ưng Lịch mới 13 tuổi lên ngôi.
Bấy giờ, theo Hiệp ước Patenôtre, bên cạnh triều đình Huế còn có Tòa khâm sứ Pháp làm nhiệm vụ "bảo hộ" cho chính quyền Nam triều. Việc gì triều đình cũng phải thông qua và được Tòa Khâm sứ này cho phép mới tiến hành.
Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường tự động làm lễ đăng quang cho vua Hàm Nghi Ưng Lịch vào ngày 2-8-1884, không thèm báo cáo với tòa khâm. Viên Khâm sứ Reinart vô cùng tức giận, bắt phải hoãn lại và lễ đăng quang phải được diễn ra dưới sự giám sát của ông ta. Tôn Thất Thuyết không chịu, viện cớ đây là việc nội bộ của triều Nguyễn. Viên đại tá Guerrier đóng quân ở đồn Mang Cá gửi tối hậu thư: Nếu Nam triều không tuân theo sẽ nã đại bác vào kinh thành.
Do lực lượng yếu kém, triều đình phải ngậm bồ hòn làm ngọt, viết báo cáo "xin phép" tòa khâm. Và đến ngày 18-8, nghĩa là hơn nửa tháng sau, khâm sứ Reinart và đại tá Guerrier dẫn 25 sĩ quan cùng 160 lính Pháp tiến vào thành và đòi đi qua cửa giữa Ngọ Môn, là cửa chỉ dành riêng cho nhà vua. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường không chịu, nhưng tranh cãi mãi vẫn phải nhượng bộ cho viên khâm sứ và đại tá Guerrier được qua cửa chính, còn quân lính đi qua cửa phụ.
Năm sau, Thống tướng De Courcy từ Hà Nội vào yết kiến Hàm Nghi, cũng đòi cho cả 500 lính theo vào cửa chính Ngọ Môn. Đó là những chuyện vô cùng sỉ nhục đối với triều đình. Những cuộc tập trận dương oai diễu võ được tổ chức nhằm uy hiếp kinh thành, quân lính Pháp tự do đi lại, hoành hành bắt bớ khắp nơi. Triều đình Huế như cá nằm trong rọ.
De Courcy biết Tôn Thất Thuyết là người chủ chiến cứng rắn nên tìm cách bắt giữ ông. Hắn "mời" triều đình cử đại thần sang để bàn về việc vào thành trình quốc thư lên Hàm Nghi, áp đặt sự lệ thuộc vào nước Pháp. Tôn Thất Thuyết lấy cớ bị ốm không sang, hắn hách dịch ra lệnh: Bị bệnh không sang được, cũng phải võng sang.
Tôn Thất Thuyết bấy lâu đã bí mật tập hợp quân sĩ chuẩn bị nổi dậy, lúc này chưa chín muồi, nhưng bị dồn vào chân tường bèn ra lệnh tấn công chống lại quân Pháp. 1 giờ sáng ngày 5-7-1885, quân triều đình chia hai ngả đồng loạt nổ súng đánh vào Tòa khâm sứ và đồn Mang Cá. Quân Pháp bị bất ngờ, hoảng loạn, nhưng khi trời sáng thấy hỏa lực quân ta yếu kém, chúng đã dùng đại bác, súng máy phản công làm quân ta bị chết hàng loạt. Quân Pháp nhanh chóng chiếm lại được ưu thế, tiến hành cuộc truy sát thảm khốc. Hàng ngàn dân thường và trẻ em bị giết hại. Ngày hôm ấy, tức 23 tháng 5 âm lịch trở thành ngày giỗ chung của nhiều gia đình ở xứ Huế.
Lời bàn:
Hàm Nghi là vị hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn - vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Vì có tư tưởng chống thực dân Pháp xâm lược, nên vua Hàm Nghi cùng với các vua Thành Thái, Duy Tân được xem là 3 vị vua yêu nước của Việt Nam thời Pháp thuộc. Lên ngôi khi mới 13 tuổi nhưng vua Hàm Nghi đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước của mình khi kiên quyết không hợp tác với thực dân Pháp và cuối cùng ông đã bị chúng bắt phải sống cuộc đời lưu đày trên đất khách quê người với rất nhiều khổ ải. Trong những năm tháng sống lưu vong, vua Hàm Nghi vẫn luôn thể hiện tinh thần dân tộc của mình, từ những điều rất nhỏ trong cuộc sống thường ngày đến việc truyền dạy tinh thần ấy cho những người con của mình.
Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, ông vẫn mang theo mình nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. Và dẫu vậy, cuộc đời và sự nghiệp của ông đã để lại cho hậu thế một tài sản vô giá. Đó là tinh thần dân tộc không bao giờ mai một của một vị vua yêu nước dù phải sống cuộc đời lưu vong.
Theo Đ.T/Dân Việt