CellphoneS: Nợ khủng, hàng tồn kho chất đống gây rủi ro mất giá?

Google News

Ngoài việc kinh doanh lỗ thuần trong hoạt động kinh doanh thì tình hình cơ cấu tài sản của CellphoneS cũng bộc lộ nhiều điểm rủi ro trong công tác quản trị doanh nghiệp, điển hình ở khoản mục hàng tồn kho, nợ phải thu,...

CellphoneS - chuỗi cửa hàng thuộc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Kỹ thuật Diệu Phúc do bà Đàm Thị Thu Trang đứng đằng sau luôn ghi nhận doanh thu tăng trưởng qua từng năm nhưng gánh nặng chi phí nên báo lỗ thuần trong hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh bức tranh tài chính không mấy sáng sủa thì tình hình cơ cấu tài sản của CellphoneS cũng bộc lộ nhiều điểm rủi ro trong công tác quản trị doanh nghiệp.
Tại ngày 31/12/2023, tổng tài sản của CellphoneS ở mức gần 1.470 tỷ đồng, tăng 24% so năm trước; phần lớn là tài sản ngắn hạn với 1.328 tỷ đồng. Đáng nói, hàng tồn kho chiếm trên 1.000 tỷ đồng, tăng 38%; tuy vậy con số dự phòng chưa tới 3 tỷ đồng.
Sản phẩm tồn kho của CellphoneS chủ yếu là những sản phẩm nhanh bị mất giá (như điện thoại, máy tính, thiết bị điện tử, đồng hồ,…). Do vậy, con số hàng tồn kho của CellphoneS khá nhạy cảm. Nếu để sản phẩm tồn kho lâu ngày sẽ thiệt hại nặng về kinh tế nhiều hơn so với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng khác, họ có thể để lâu mà ít bị giảm giá trị theo thời gian.
Sự hợp lý về con số hàng tồn kho tăng lên của CellphoneS phụ thuộc vào diễn biến kinh doanh của doanh nghiệp này trong giai đoạn sắp tới. Nếu doanh nghiệp tiếp tục đẩy mạnh được hoạt động bán hàng, tăng doanh thu trong các tháng tiếp theo, thì việc tăng hàng tồn kho là phù hợp để đáp ứng nguồn hàng phục vụ kinh doanh.
Tuy nhiên, Công ty có thể sẽ gặp phải bế tắc đối với hàng tồn kho nếu thị trường có những biến động bất thường, đầu ra chậm lại. Khi đó, khả năng doanh nghiệp sẽ phải tăng trích lập dự phòng để phù hợp với giá trị thực tế của số hàng còn tồn đọng trong kho.
CellphoneS: No khung, hang ton kho chat dong gay rui ro mat gia?
Một cửa hàng trong chuỗi CellphoneS. Ảnh: Internet.
Cũng theo BCTC năm 2023, tại ngày cuối năm CellphoneS ghi nhận hơn 160 tỷ đồng các khoản phải thu ngắn hạn và hơn 66 tỷ đồng các khoản phải thu dài hạn, tổng cộng có đến hơn 220 tỷ đồng không nằm trong “tay” của doanh nghiệp và không được trích lập dự phòng với khoản này. Dù vậy nhưng khoản mục khoản phải thu này cũng đã giảm so với năm 2022.
Ở phía bên nguồn vốn, nợ phải trả của CellphoneS chiếm trên 1.240 tỷ đồng tập trung ở nợ ngắn hạn, trong đó khoản phải trả người bán ghi nhận 776,92 tỷ đồng, tăng mạnh 76% so năm trước.
Vay nợ tài chính ngắn hạn năm 2023 giảm về còn 394 tỷ đồng, trong khi năm trước đó con số này ở mức hơn 408 tỷ đồng. Điều này giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí lãi vay ghi nhận 17,7 tỷ đồng từ mức 18,4 tỷ đồng của cùng kỳ. Doanh nghiệp không vay nợ tài chính dài hạn.
Đáng lưu tâm là chỉ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu đến 5,4 lần, điều này cho thấy tài sản của Cellphones được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ. Trên thực tế, nếu nợ phải trả chiếm quá nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu có nghĩa là doanh nghiệp đi vay mượn nhiều hơn số vốn hiện có, nên doanh nghiệp có thể gặp rủi ro trong việc trả nợ, đặc biệt là doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn hơn khi lãi suất ngân hàng ngày một tăng cao.
Trả lời báo Người Lao Động, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng, hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu theo tỉ lệ đòn bẩy tài chính thì 1/1 được tính là bình thường, nghĩa là 1 đồng nợ phải trả, thì VCSH cũng là 1 đồng. Thậm chí tỉ lệ 2/1 cũng không phải quá rủi ro, tình trạng báo động là tỉ lệ lên đến 3/1.
TS. Nguyễn Trí Hiếu phân tích, có 2 kịch bản có thể xảy ra khi các doanh nghiệp có nợ phải trả/VCSH lên đến tỉ lệ 3/1, tức ở mức báo động. Theo đó, VCSH của doanh nghiệp có thể giảm rất sâu do tài sản của doanh nghiệp bị thất thoát, chẳng hạn như khách hàng không trả nợ, hàng tồn kho hư hỏng, tài sản cố định hư hao… sẽ làm giảm đi VCSH của doanh nghiệp.
Khi VCSH giảm đi, thì tỉ lệ này sẽ không còn là 3/1 nữa, mà sẽ tăng lên đến 4/1, 5/1… Lúc đó doanh nghiệp dễ dàng đi vào tình trạng phá sản do VCSH của họ quá thấp để có thể chịu được một gánh nợ lớn.
Ngoài ra, với VCSH mỏng thì các doanh nghiệp thường phải đi vay, trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh không tốt, phải đi vay nhiều để chịu gánh nợ tài chính hoặc để phát triển thì tỉ lệ đòn bẩy sẽ lên rất cao, có thể đưa doanh nghiệp vào tình trạng phá sản.
(Còn tiếp)...
Bài 3: Đằng sau CellphoneS là thế lực truyền thông nào?
Minh Châu