|
TS Cấn Văn Lực |
Kết quả khảo sát của Hiệp hội doanh nghiệp TP. HCM đến cuối tháng 2/2023 cho thấy 83% số doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Trong đó, các khó khăn chủ yếu bao gồm: lãi suất cao và biến động tỷ giá mạnh; thị trường bị thu hẹp; khó tiếp cận vốn, thủ tục vay vốn phức tạp, mất nhiều thời gian; hàng tồn kho nhiều; giá nguyên liệu đầu vào tăng; chi phí nhân công tăng. Đáng nói, doanh nghiệp ở nhiều ngành sản xuất chủ lực đang cùng lúc đối mặt với những khó khăn chưa từng có. Đó là tình trạng đơn hàng sụt giảm mạnh, cạn kiệt dòng tiền. Điều này khiến phần lớn doanh nghiệp phải chật vật duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trong bối cảnh đó, nhiều quan điểm cho rằng việc khơi thông dòng vốn là yếu tố tiên quyết để cứu doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã ghi nhận quan điểm của TS Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia về vấn đề này:
- Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội diễn ra cách đây ít lâu, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhấn mạnh, hiện nay, doanh nghiệp đang rất khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Cá nhân ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
TS Cấn Văn Lực: Tôi đồng quan điểm với Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng về vấn đề này. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý I/2023, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 3,7% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng 8,9% của năm 2022. Tương tự, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của khối doanh nghiệp tư nhân chỉ tăng 1,8% so với cùng kỳ, thấp hơn mức 9,1% của năm 2022. Như vậy, vấn đề vốn để phát triển kinh tế tăng trưởng thấp không chỉ diễn ra ở khu vực kinh tế tư nhân mà còn là tình trạng chung của cả nền kinh tế. Trong đó, hết 4 tháng đầu năm, giá trị trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành chỉ đạt 25.466 tỷ đồng, giảm 83,6% so với cùng kỳ năm 2022; tăng trưởng tín dụng chỉ đạt gần 3% (thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,24% cùng kỳ năm trước).
- Vì sao doanh nghiệp lại khó tiếp cận vốn như vậy?
Tôi cho rằng có ít nhất 3 nguyên nhân. Thứ nhất, môi trường kinh doanh không thuận lợi dẫn đến phương án kinh doanh kém khả quan. Tính đến tháng 4/2023, IMF dự báo kinh tế toàn cầu tăng khoảng 2,8% năm 2023 (từ mức 3,4% năm 2022) và 3% năm 2024. Bối cảnh quốc tế còn nhiều thách thức, có tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và du lịch của Việt Nam. Tính đến hết tháng 4/2023, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 11,8% so với cùng kỳ. Tương tự, vốn FDI đăng ký giảm 17,9%, vốn FDI giải ngân giảm 1,2% so với cùng kỳ. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến, chế tạo, có hướng xuất khẩu như: điện tử, điện thoại, dệt may, da giày, chế biến thủy hải sản, gỗ... Do phương án kinh doanh kém khả quan nên các doanh nghiệp cũng khó đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn tín dụng của các tổ chức tín dụng. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng giảm nhu cầu vay vốn.
Thứ hai, lãi suất và lạm phát dù đang giảm, nhưng còn ở mức cao. Đến hết tháng 4/2023, Ngân hàng Nhà nước đã 2 lần giảm một số lãi suất điều hành. Lãi suất huy động và cho vay cũng đã giảm (1% - 2% so với đầu năm), tuy nhiên còn ở mức cao so với trước thời kỳ dịch Covid-19, dẫn tới chi phí tài chính của doanh nghiệp tăng lên. Doanh nghiệp có tâm lý chờ lãi suất hạ nhiệt để đi vay và ưu tiên sử dụng vốn tự có nhiều hơn. Trên thực tế, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại hệ thống các tổ chức tín dụg đã giảm 5,7% trong 2 tháng đầu năm 2023 và huy động vốn của các tổ chức tín dụng hết 4 tháng cũng chỉ tăng khoảng 1,5% so với đầu năm.
Thứ ba, thanh khoản tại các thị trường tiền tệ và vốn cần có thời gian để tháo gỡ. Hiện nay, trước bối cảnh kinh tế tăng trưởng chậm và lạm phát có xu hướng giảm nhiệt, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một loạt các biện pháp để tháo gỡ, tạo thêm thanh khoản cho thị trường. Cụ thể, Chính phủ ban hành Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 nới lỏng các điều kiện phát hành và tạo điều kiện xử lý trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023, ban hành Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản giúp tăng cung tín dụng bất động sản thông qua chương trình tín dụng khoảng 120.000 tỷ đồng cho dự án nhà ở xã hội với lãi suất thấp; Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 02 và Thông tư 03 ngày 23/4/2023 về việc giãn/hoãn nợ và cho phép ngân hàng tiếp tục mua trái phiếu doanh nghiệp (lần lượt), dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 41/2016 quy định về việc quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng để khuyến khích tăng cho vay các dự án phát triển bất động sản khu công nghiệp, dự án nhà ở xã hội, nhà ở theo các dự án hỗ trợ của Chính phủ… Mặc dù vậy, thị trường cũng như khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp vẫn cần khoảng thời gian để điều chỉnh.
- Các gói hỗ trợ như hỗ trợ lãi suất 2% đang bị doanh nghiệp phàn nàn là tiêu chí cao và khó tiếp cận. Điều này rõ ràng đang cản trở tới quá trình tiếp cận vốn cho doanh nghiệp?
Căn cứ Thông tư 03/2022 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn Nghị định 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, các tổ chức tín dụng đã thực hiện giải ngân gói hỗ trợ 2% của Chính phủ nhưng với tiến độ rất chậm. Theo Chính phủ, dự kiến đến hết năm 2023 sẽ chỉ giải ngân được khoảng 2,6 nghìn tỷ đồng với số vốn không sử dụng hết còn khoảng 37,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 93,5%).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% chậm trễ. Một là theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước, khách hàng chưa thực sự quan tâm đến gói hỗ trợ này do tâm lý e ngại thanh, kiểm tra sau này (khoảng 67% khách hàng thuộc ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất và đủ điều kiện thụ hưởng nhưng không có nhu cầu được hỗ trợ lãi suất). Hai là khó xác định chính xác đối tượng nhận hỗ trợ vì có nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động đa ngành nghề hoặc chưa đăng ký kinh doanh. Ba là khó xác định được tiêu chí “có khả năng phục hồi” trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó lường như hiện nay (khoảng 87% khách hàng thuộc ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất nhưng không đáp ứng điều kiện được hỗ trợ lãi suất). Chính phủ đã nhận diện rõ những nguyên nhân này và đã chỉ đạo nghiên cứu điều chuyển hoặc đề xuất cho phép dùng vào mục đích phù hợp, khả thi khác…
- Gần đây lãi suất huy động tiền gửi có xu hướng giảm, nhưng lãi suất cho vay vẫn chưa giảm sâu, phải giải thích thế nào về điều này?
Thực tế là cả lãi suất huy động và cho vay đã giảm khoảng 1% - 2% so với đầu năm, tùy kỳ hạn, đối tượng khách hàng vay, dự án vay… Biên lãi ròng (NIM) của các tổ chức tín dụng đang chịu áp lực giảm do mặt bằng lãi suất cho vay và huy động còn giảm trong năm 2023. Trong đó, lãi suất cho vay giảm theo yêu cầu của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nhằm hỗ trợ khách hàng và lãi suất huy động cũng trong xu hướng giảm nhằm tiết giảm chi phí, tạo điều kiện hạ lãi suất cho vay. Mặc dù vậy, chi phí lãi sẽ giảm chậm hơn thu nhập lãi do các khoản vốn huy động lãi suất cao phát sinh cuối năm 2022 chưa đến kỳ đáo hạn, có thể kéo dài sang nửa đầu năm 2023, trong khi lãi suất cho vay giảm nhanh hơn, dẫn đến NIM thấp hơn so với năm 2022.
- Trong câu chuyện thị trường vốn, nhiều ý kiến cho rằng nguyên nhân của khó khăn là do trái phiếu doanh nghiệp và Nghị định 08 đã tháo gỡ được vấn đề này, ông có chung quan điểm?
Có thể khẳng định thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã trải qua hơn một năm rất khó khăn. Tổng quy mô phát hành trái phiếu doanh nghiệp năm 2022 chỉ đạt khoảng 338 nghìn tỷ đồng (gồm cả trái phiếu doanh nghiệp phát hành quốc tế), giảm hơn 47% so với cùng kỳ năm 2021. Bước sang năm 2023, hết 4 tháng đầu năm, như đã nêu trên, phát hành trái phiếu doanh nghiệp giảm 83,6% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân của sự suy giảm này là tâm lý nhà đầu tư chưa ổn định trở lại sau một số sai phạm, trong khi các quy định mới trong Nghị định 65/NĐ-CP (ngày 16/9/2022) được đánh giá là đã siết chặt một cách quá nhanh, khiến các doanh nghiệp và nhà đầu tư chưa kịp thích ứng, nhất là trong bối cảnh niềm tin, tâm lý thị trường và nhà đầu tư lung lay sau các vụ vi phạm phát hành trong năm 2022.
Để giải quyết các khó khăn này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 08/NĐ-CP (ngày 5/3/2023), được xem là giải pháp tạm thời cho thị trường. Biện pháp này đã cho thấy hiệu quả rõ rệt khi khối lượng phát hành kể từ ngày 6/3/2023, khi Nghị định 08 có hiệu lực, đến hết tháng 3 lên tới 23.825 tỷ đồng, gấp gần 10 lần khối lượng phát hành trong 2 tháng đầu năm, góp phần giải quyết phần nào vấn đề tiếp cận vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Trong tháng 4/2023, rất tiếc là không có thêm đợt phát hành mới nào (theo VNDirect), cũng có thể là do doanh nghiệp phát hành đã có thể đảm phán hoãn nợ một phần trái phiếu đáo hạn hoặc mua lại hoặc bán tài sản để trả nợ… Tôi hi vọng Bộ Tài chính cũng sẽ xem xét để sửa thêm một số điểm của Nghị định 65/NĐ-CP để các tổ chức tín dụng có thể phát hành trái phiếu thuận lợi hơn và thị trường sẽ dần phục hồi tốt lên cùng với đà ấm lên của thị trường bất động sản.
- Vậy, cụ thể chúng ta sẽ cần hành lang pháp lý và quy chế quản lý thị trường như thế nào?
Đầu tiên, cần quyết liệt chỉ đạo giải quyết nhanh chóng, dứt điểm và nghiêm minh những vi phạm về phát hành trái phiếu doanh nghiệp vừa qua để lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư. Điều này sẽ giúp thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn để đầu tư, sản xuất và cả đảo nợ, đảm bảo quá trình phục hồi của nền kinh tế không bị gián đoạn. Hai là cần nhanh chóng cải cách thủ tục, điều kiện, rút gọn thời gian cấp phép phát hành để tạo điều kiện, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng.
Đây sẽ là kênh gọi vốn quan trọng của doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đang được kiểm soát chặt chẽ hơn và dòng vốn tín dụng không dồi dào. Đồng thời, cơ quan chức năng hoàn thiện hạ tầng thị trường như thiết lập thị trường thứ cấp tập trung đối với trái phiếu doanh nghiệp vừa tăng tính thanh khoản, vừa tăng khả năng kiểm soát; chuẩn hóa quy định về hồ sơ phát hành, báo cáo tài chính, bản cáo bạch... ; sớm nghiên cứu sửa đổi Nghị định 65 cho phù hợp hơn nữa và kịp chuẩn bị khi Nghị định 08 hết hiệu lực cuối năm 2023.
Ba là, cần bổ sung các chính sách khuyến khích định hạng tín nhiệm, công bố thông tin định hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp nói chung (không chỉ cho phát hành trái phiếu doanh nghiệp) đồng thời cần sớm xem xét cấp phép thêm 2-3 công ty định hạng tín nhiệm có đủ năng lực, khuyến khích cả xếp hạng tín nhiệm quốc tế, để khi Nghị định 08 hết hiệu lực và tiếp tục áp dụng Nghị định 65 thì mọi thứ đã sẵn sàng hơn... Bốn là hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát thị trường, ví dụ cơ chế quản lý đối với trái phiếu sau phát hành như quản lý tài sản đảm bảo, giám sát dòng tiền, quản lý mục đích sử dụng vốn… tăng mức chế tài đối với các hành vi vi phạm. Theo đó, cơ quan chức năng cần sớm rà soát, sửa đổi cũng như các nghị định có liên quan (155, 156), Luật Chứng khoán 2019, Luật Doanh nghiệp 2020 nhằm đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ.
- Với bức tranh của thị trường vốn ở thời điểm hiện tại, ông có kiến nghị gì để phát triển thị trường lành mạnh, bền vững?
Để thị trường vốn trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp căn cơ để hỗ trợ thị trường phát triển lành mạnh, bền vững trong dài hạn. Thứ nhất là tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp, đảm bảo ổn định hệ thống tài chính – tiền tệ.
Thứ hai là tiếp tục đẩy nhanh các cấu phần trong chương trình phục hồi kinh tế - xã hội và giải ngân đầu tư công; thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các cấu phần đang triển khai chậm; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, vừa tạo động lực tăng trưởng, vừa giảm nợ đọng lẫn nhau của các doanh nghiệp.
Thứ ba là thực thi và bám sát chiến lược tài chính đến năm 2030 (Quyết định 368/QĐ-TTg ngày 21/3/2022) của Thủ tướng Chính phủ nhằm phát triển thị trường chứng khoán thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn; trong đó, quan tâm phát triển quy mô thị trường, cơ sở nhà đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm; nâng cao chất lượng quản trị công ty, năng lực của cơ quan quản lý – giám sát và các tổ chức kinh doanh chứng khoán… qua đó tạo chuyển biến lớn về chính sách, mức độ phát triển và hướng tới nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam vào năm 2025.
Thứ tư là hoàn thiện thể chế, tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao tính minh bạch, chuyên nghiệp và hiệu quả cho thị trường tài chính, quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính, gồm cả rủi ro liên thông giữa tài chính – bất động sản. Theo đó, việc nâng cao hiệu quả kết hợp giữa các cơ quan quản lý là rất quan trọng, cùng với việc xây dựng mạng lưới an toàn tài chính, việc tăng tính độc lập, năng lực cho cơ quan thanh tra - giám sát cũng như vai trò của bảo hiểm tiền gửi.
Thứ năm là hoàn thiện hạ tầng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp như thị trường thứ cấp tập trung, cơ sở dữ liệu về trái phiếu, tài sản đảm bảo… Việc xây dựng và phát triển các thị trường thứ cấp an toàn là nội dung cần sớm triển khai để tăng thanh khoản, thu hút thêm dòng vốn đầu tư từ trong và ngoài nước. Các hạ tầng hỗ trợ cho thị trường cũng cần được quan tâm, ví dụ như cơ sở dữ liệu về tài sản bảo đảm để hạn chế trường hợp sử dụng một tài sản cho nhiều khoản vay.
Thứ sáu là cần thực hiện các giải pháp để nâng hạng thị trường chứng khoán lên mức thị trường mới nổi, bao gồm: tăng cường khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc công bố các quy định, thông tin và báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết bằng tiếng Anh; áp dụng tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế (IFRS); phát triển hệ thống xếp hạng tín nhiệm (như nêu trên) cùng với hạ tầng thanh toán bù trù, lưu ký; sớm triển khai các dịch vụ cho vay thấu chi và giao dịch ứng tiền trước; cải thiện khả năng chuyển nhượng thông qua việc cắt giảm thủ tục (hiện nay giao dịch ngoài sàn và chuyển nhượng hiện vật cần được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận trước); triển khai các sản phẩm dịch vụ như cho vay chứng khoán và bán khống.
Thứ bảy là phát triển đội ngũ nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến việc thu hút các quỹ đầu tư nước ngoài cũng như phát triển các quỹ đầu tư trong nước, nhất là các quỹ đầu tư mới như quỹ mở, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tín thác bất động sản (REITs), quỹ mạo hiểm… Cuối cùng là tuyên truyền, xây dựng và thực thi chương trình giáo dục tài chính để nâng cao năng lực, trình độ của nhà đầu tư, giúp họ đưa ra quyết định đầu tư, sử dụng đòn bẩy tài chính hợp lý, hạn chế tâm lý đám đông, biết kiếm tiền, tiết kiệm, đầu tư và tiêu tiền thông thái hơn, cũng là để góp phần phát triển thị trường tài chính quốc gia, giảm thiểu tín dụng đen và đầu tư đa cấp, biến tướng…
Theo Kỳ Thư/Tạp chí Đầu tư Tài chính