Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, ngày 4/11, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về Đánh kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025.
Rừng thiệt hại gây nhiều hậu quả nghiêm trọng
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Tô Văn Tám (đoàn Kon Tum) trăn trở về việc mất rừng. Theo đại biểu, tình trạng rừng bị thiệt hại vẫn tiếp tục xảy ra và có nguy cơ gia tăng. Một số liệu cho thấy từ năm 2011 đến nay, diện tích rừng thiệt hại ước hơn 22.800ha, trong đó rừng bị cháy là khoảng 13.700ha, còn lại là chặt phá trái phép.
|
Đại biểu Quốc hội Tô Văn Tám (đoàn Kon Tum). Ảnh: QH. |
Rừng thiệt hại gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như mất đa dạng sinh học, giảm giá trị tự nhiên và văn hóa của rừng, thay đổi khí hậu, xói mòn đất và là một trong những tác nhân của hiện tượng thời tiết cực đoan, bất thường như hạn hán, lụt lội, lũ quét, sạt lở.
“Nạn chặt phá rừng trái phép vẫn đang là vấn đề nóng cần được giải quyết triệt để. Chính phủ cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo vệ rừng, xử lý triệt để nạn chặt phá rừng trái phép”, đại biểu Tô Văn Tám nêu ý kiến.
Theo đại biểu, rừng còn chịu tác động bởi hoạt động chuyển mục đích sử dụng. Quy định chủ đầu tư có trách nhiệm trồng lại rừng thay thế đúng bằng diện tích rừng chuyển đổi hoặc có thể đóng tiền trồng rừng thay thế vào quỹ địa phương để thực hiện trồng rừng là hoàn toàn đúng và đảm bảo diện tích rừng không bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, rừng tự nhiên với những giá trị đặc trưng về sinh thái, đa tầng, đa dạng sinh học, môi trường rừng, sinh kế, đời sống văn hóa, giá trị giữ nước, phòng, chống lũ lụt, lũ quét, sạt lở…
Để khôi phục lại một khu rừng đã mất hoặc chuyển đổi phải mất hàng thập kỷ. Khi chúng ta thực hiện trồng rừng thay thế theo phương thức trồng 1 năm và 4 năm chăm sóc, giá trị của rừng chưa khôi phục lại được. Và trong khoảng thời gian cho cây phát triển được thành rừng đúng nghĩa là thời gian chưa có rừng, các hệ lụy vẫn có thể xảy ra.
Ngoài ra, có những địa phương không đủ đất hoặc không có đất để trồng rừng thay thế. Chất lượng của rừng cũng là một vấn đề. Một số liệu cho thấy tỷ lệ rừng giàu đóng tán mới khoảng 4,6%, rừng nguyên thủy còn khoảng 10%. Có nhiều địa phương miền núi độ che phủ rừng tự nhiên đạt tỷ lệ thấp và việc trồng rừng thay thế mới đạt được hơn một nửa sau yêu cầu.
Từ những vấn đề trên, đại biểu đề nghị Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên tiến hành giám sát việc trồng rừng và trồng rừng thay thế.
Đối với Chính phủ, cần thực hiện đánh giá hiệu quả tác dụng của độ che phủ rừng đối với vấn đề đa dạng sinh học, môi trường rừng, tác động phòng chống biến đổi khí hậu, hạn hán, lũ quét, sạt lở, tác dụng giữ nước và đời sống văn hóa của rừng.
Cùng với đó, kiểm soát chặt chẽ các dự án phát triển kinh tế - xã hội có chuyển đổi rừng theo hướng chỉ những dự án cần thiết và những dự án quan trọng phục vụ cộng đồng, những dự án phục vụ quốc phòng, an ninh, phải trồng rừng thay thế có chất lượng, hiệu quả trước khi cấp phép lấy rừng.
“Thứ ba, chúng ta đang hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và việc bán tín chỉ carbon, Chính phủ cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển rừng để hướng tới vừa phát triển rừng, vừa bảo tồn, khai thác giá trị kinh tế của rừng thay vì lấy rừng làm kinh tế”, đại biểu nhấn mạnh.
Cần chấm dứt việc khai thác gỗ tự nhiên
Phát biểu tiếp nối ý kiến của đại biểu Tô Văn Tám, đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (đoàn Bình Định) cho biết, nêu thực trạng, đến địa phương nào cũng nhận thấy màu xanh của rừng không bền vững, chủ yếu là keo, bạch đàn đều là những cây có khả năng giữ đất không cao, với chu kỳ khai thác ngắn, có khi chỉ 3 đến 5 năm núi đồi lại trọc.
|
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Lân Hiếu (đoàn Bình Định). |
Theo đại biểu, chúng ta cần thay đổi cách làm, tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước để triển khai kế hoạch trồng rừng theo từng địa phương, từng địa hình, địa lý khác nhau. Nên tăng cường trồng cây bản địa, những cây lâu năm, nếu vẫn cần khai thác kinh tế thì có thể quy hoạch những vùng trồng cây sản xuất ở phía dưới, còn phía trên đỉnh núi là những cây lâu năm, cây bản địa.
Đối với việc khai thác tài nguyên, đặc biệt là những đại dự án ở vùng lõi, vùng dự trữ sinh quyển, đại biểu Nguyễn Lân Hiếu cho rằng, rất cần rà soát cẩn thận, đánh giá tác động môi trường khách quan, công tâm, đặc biệt khi những nhà khoa học đã lên tiếng cảnh báo thì chúng ta cần phải thận trọng.
“Việc khai thác gỗ tự nhiên cần chấm dứt, tuyên truyền để thay đổi sở thích sập gụ, tủ chè làm bằng gỗ nguyên khối tự nhiên của người Việt Nam. Cần nghiêm trị những hành vi phá hoại môi trường cho dù là nhỏ nhất, như trồng cây mà vẫn còn nguyên bọc bầu hay cây còn có khả năng cứu chặt đi để xin ngân sách trồng mới”, đại biểu Nguyễn Lân Hiếu nêu ý kiến.
Khoáng sản là “miếng mồi ngon”, khai thác bất chấp
Liên quan đến vấn đề môi trường, đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) quan tâm đến việc quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm khoáng sản.
|
Đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp). Ảnh: QH. |
Đại biểu Phạm Văn Hòa cho biết, Luật Địa chất, khoáng sản dự kiến được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 đã sửa đổi, bổ sung rất nhiều điểm bất cập về quản lý nhà nước, nhằm khai thác, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả. Đại biểu khẳng định, khoáng sản là tài nguyên quý giá của đất nước, hầu hết không được tái tạo phát triển mà ngày càng cạn kiệt, đòi hỏi phải được quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, đóng góp tương xứng vào ngân sách nhà nước, góp phần vào sự phát triển quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nhiều nơi vẫn còn vấn đề cần phải nghiên cứu thấu đáo. “Vì khoáng sản là “miếng mồi ngon” mà những người biết cách sẽ khai thác triệt để, bất chấp hệ quả, miễn là có lợi cho họ”, đại biểu chỉ ra thực trạng.
Theo đại biểu, nhiều khoáng sản quý giá nằm lẫn lộn trong đất đá nên tổ chức, cá nhân lợi dụng sơ hở của luật pháp trong quản lý để lách luật, khai thác hàng quý hiếm này chung với vật liệu thông thường để tiêu thụ, mà không bị phát hiện. Ngoài ra, việc khai thác khoáng sản quý trái phép diễn ra cục bộ ở một số nơi vẫn qua mắt được cơ quan chức năng.
Mặt khác, việc kê khai số lượng quặng khoáng sản được thu hồi phụ thuộc vào tính tự giác của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước rất khó kiểm soát. Chưa kể đến các mỏ khoáng sản được cấp phép khai thác theo cơ chế xin – cho, cũng làm thất thu ngân sách nhà nước.
Một vấn đề nữa, đại biểu lo ngại tại những địa phương vùng cao, có những khoáng sản đi kèm như đất, đá, xỉ than lẫn lộn với khoáng sản quý vẫn chưa được sử dụng khai thác, bị thải bỏ gây ra lãng phí, có nơi chất thành đống cao, nguy cơ sạt lở, ô nhiễm môi trường đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của người dân, trong khi đó đất đá để xây lắp cho các công trình không đủ để sử dụng.
Đại biểu đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành có giải pháp cần thiết để sử dụng đất đá thải ra từ các mỏ khoáng sản, xỉ than, từ các nhà máy nhiệt điện, nhà máy điện để sử dụng thay thế cho các sông làm vật liệu thông thường.
“Cát biển cũng cần nghiên cứu kỹ lưỡng, có đánh giá tác động để khi sử dụng không ảnh hưởng đến môi trường; nghiên cứu xây dựng cầu cảng trên vùng đất yếu, vùng trũng, đồng bằng sông Cửu Long cần nhanh chóng thực hiện thí điểm”, đại biểu nêu ý kiến.
Mai Loan