Huyền bí thuật nèm
Quả thật, chỉ đến khi rung đùi ngồi uống rượu nghe bậc thầy bùa ngải xứ Mường Hoàng Văn Nhẽo kể chuyện bùa mê ngải lú, tôi mới hoàn hồn. Chả là đường đến xóm Dùng phải qua một con suối. Mùa mưa, nước đầy, suối sâu. Xe máy tôi mượn của con trai thầy mo Thục vừa lao xuống đã kêu đánh “ục”. Máy tắt ngỏm.
Trời tối bịt bùng. Sương giăng tứ phía. Một mình giữa núi đồi heo hút. Tôi sởn da gà. Nghiến răng, oằn lưng đẩy xe vượt suối. Một nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhỡ ông Nhẽo không có nhà, lại đất khách quê người, biết ở đâu? Mò mẫm mãi cũng đến được nơi cần đến.
Cất tiếng gọi lạc giọng, mới nghe lời vọng ra ồm ồm: “Ai hỏi gì tôi đấy?”. Tôi thở phào, chợt thấy thấm thía đến thế câu nói của cổ nhân: “Mừng như chết đuối vớ được cọc”.
Nghe tôi giới thiệu là người thân của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, ông Nhẽo vui lắm. Tay rót rượu mời khách, ông nói cười rổn rảng: “Anh cứ ở đây với bác vài hôm, không ngại gì đâu. Bác ở có một mình thôi mà”.
Tôi đưa mắt nhìn. Căn nhà sàn rộng thênh thếnh, lạnh lẽo như cái đình bỏ hoang. Đồ đạc chẳng có gì. Tài sản đáng giá nhất chỉ là cái tủ buýp-phê mốc lở và chiếc đài cát-xét Trung Quốc bị mất nắp. Tôi hỏi: “Thế bác gái cháu đâu ạ?”.
Ông Nhẽo cười buồn: “Chết hết, bỏ hết đi cả rồi. Ngày xưa, bác nèm cho nhiều người đàn bà đẹp mê mình. Nèm cả vợ người ta bỏ chồng theo mình. Vì thế, về già, trời quả báo, phải ở một mình thế này đấy”.
Được biết, ông Nhẽo đã dùng thuật nèm chài để lấy những... 10 vợ. Sau này, người thì chết, người thì bỏ ông mà đi. Ông bảo: “Dù có tài nèm đến đâu cũng không tránh khỏi cái hoạ cô đơn về già. Vì thế, giờ đây, bác chỉ làm phúc nèm cho các cặp vợ chồng yêu thương nhau. Nèm cho đàn ông bỏ gái, đàn bà bỏ giai mà về đoàn tụ với vợ với chồng”.
Lụi cụi mở nắp chiếc hòm cũ kỹ để ở góc nhà, ông Nhẽo đưa cho tôi xem một tập vở dày cộm ghi chi chít tên tuổi, địa chỉ những người vợ bị phụ bạc, những ông chồng bị cắm sừng đến nhờ ông nèm giúp. Tôi lần giở từng trang. Dễ có đến cả nghìn địa chỉ.
Thôi thì đủ cả “4 phương trời mười phương đất”. Gần thì Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội… Xa thì Hà Giang, Thanh Hoá, Nghệ An... Có người ở tận tít tắp trong Bảo Lộc, Lâm Đồng... Xa quá thì đành gửi ảnh “một nửa của mình” và cả ảnh của kẻ tranh vợ cướp chồng để ông Nhẽo làm nèm chia cắt.
|
Thầy Hoàng Văn Nhẽo làm bùa để lấy 10 vợ nhưng phải sống cô đơn lúc về già. |
Ông Nhẽo bảo: “Phép thuật nèm chài của người Mường có từ ngàn năm nay rồi nên phong phú lắm. Bản thân bác, tu luyện gần trọn một đời, cũng chỉ biết làm có mấy chục bài. Phép tắc, lề lối thì vô cùng chặt chẽ. Khi nèm, phải đọc thần chú liền một hơi cho hết bài. Nếu bị đứt đoạn thì phải nghỉ lấy hơi đọc lại.
Đọc thầm, tuyệt đối không cho ai nghe thấy, không cho lưỡi va vào răng. Niệm đủ 3 lần mới hà hơi vào gạo, muối rồi bí mật bỏ vào nồi cơm, canh để ăn vào, tự khắc sẽ yêu thương nhau. Nếu muốn bồ bịch bỏ nhau thì niệm thần chú vào một số hạt thóc rồi quải cho gà nhà người ấy ăn, tự khắc hai người sẽ chán nhau”.
Trò chuyện với ông, tôi mới biết, phép nèm vô cùng thần bí, thần bí đến mức có nhiều chi tiết không thể lý giải bằng tư duy lôgíc thông thường. Ví như: Vì sao phép màu muốn truyền dạy người khác phải chọn đúng ngày giờ? Mỗi năm chỉ có vài ngày truyền dạy được?
Có những bài nèm chỉ làm được vào lúc chập tối. Nèm xong phải quay mặt ra hướng Tây mà thở. Vì sao khi vào mùa ếch nhái kêu thì có truyền dạy đúng bài bản cũng không thể “khất” (không thực hiện nổi)?
Rồi ông say sưa kể về cách nèm cho chó vẫy đuôi để đến nơi có chó dữ, chúng sẽ mừng như mừng chủ. Rồi cách nèm nương bùa, nèm để không một người ngoài nào có thể lấy hoa màu nông sản mình trồng trên nương.
Tôi mỉm cười. Thảo nào, lúc ngồi uống rượu, thấy tôi nhấp nhổm ngó nghiêng con Wave của con trai thầy mo Thục để dưới gầm nhà sàn, ông Nhẽo tủm tỉm: “Anh cứ yên tâm, cứ ngồi uống cho thoả sức. Đố ai dám sờ mó con xe của anh. Nếu mất, mai bác đền”.
Nhà bùa chú Hoàng Văn Nhẽo đã đồng ý cho tôi ghi 5 bài thần chú nèm yêu của ông với điều kiện, tôi không được bật máy ghi âm. Đó là bài: Nèm vào khăn mặt cho vợ chồng thương yêu nhau. Nèm dò lá thương yêu (niệm chú vào cành lá rồi thả ra đường. Người mình yêu dẫm phải sẽ tự nguyện theo mình).
Nèm phô nống (niệm chú vào bàn tay rồi vỗ vào vai đối phương, tự khắc người ấy sẽ mê mình). Nèm lá phai nhạt chán ghét (dùng cành lá nèm vào làm cho tình nhân, bồ bịch bỏ nhau). Và bài liếc mắt tìm hiểu (đọc chú xong, liếc mắt đưa tình làm cho đối phương mê mẩn).
Hỏi về phép thuật chài, ông Nhẽo giãy nảy: “Thất đức! Thất đức! Không nên truyền cho nhau cái thứ hại người ấy. Vì chài nó nguy hiểm lắm. Mấy làng mới có một ma chài. Dân Mường có câu: “Trong chài ngoài mõ”. Người Kinh xa lánh mõ thế nào thì người Mường xa lánh chài thế ấy. Người ta hay dùng sắt để chài. Niệm thần chú vào sắt rồi quệt vào cây mía, quả cam, vại nước. Người bị hại ăn uống những thức ấy, tự khắc trong bụng có sắt thôi”.
Những bài thần chú bằng tiếng Kinh
Về chuyện chài, tôi đã được nghe ông Vũ Đình Hiền, nguyên cán bộ Sở văn hoá thông tin tỉnh Vĩnh Phú (cũ) kể:
Năm 1963, ông được dự một lớp học “Chống mê tín dị đoan để đưa miền núi tiến kịp miền xuôi” do huyện uỷ Thanh Sơn tổ chức, ông Cao Đức Chính, thường vụ huyện uỷ phụ trách.
Đợt ấy, huyện phát động phong trào nhân dân tố giác những người biết chài, nèm để bắt đến lớp học tập, cải tạo. Có một người đàn bà ở xóm Đồng Cỏ, xã Thục Luyện đã chài, hại một anh thanh niên Mường làng Cự Thắng, lấy vợ ở Thục Luyện.
Khi bị phát hiện, người đàn bà độc ác ấy bỏ trốn về xã Giáp Lai. Công an huyện do ông Đinh Liên Đàm chỉ huy đã truy tìm bắt về huyện. Trước công an điều tra, mụ đã thú nhận làm chài sắt hại anh thanh niên nọ.
Song mụ chỉ biết chài theo gia truyền chứ không biết cách giải, trong khi bệnh tình của anh thanh niên Mường ngày càng nguy kịch. Một ông già Mường ở Cự Thắng, thấy vậy, yêu cầu lãnh đạo huyện và xã viết cam kết không bắt ông đi cải tạo, ông sẽ chữa chài trước mắt mọi người.
Ông Hiền kể: “Tôi thấy ông già bưng ra một chậu thau nước lã, một cái chày, một dùi gỗ. Viết bùa, thắp hương, đọc thần chú xong, ông dán bùa vào chày gỗ rồi để vào bụng anh thanh niên nọ, vung dùi đập đánh “bốp” một cái. Anh kia kêu hét lên, hai tay ôm ngực.
Ông già lại để chày lên ngực, đập tiếp một phát. Anh kia lại hét, giơ tay ôm cổ. Khi ông già đập vào cổ, anh thanh niên ngã vật xuống. Một cái đinh mười phân bọc trong mảnh vải váy đàn bà, cuộn bên ngoài bằng chỉ ngũ sắc, bật ra khỏi mồm. Vài hôm sau, lại đi nương đi rẫy.
Đêm ấy, mãi 12 giờ đêm, tôi mới đi ngủ. Phần vì mệt, phần vì khuya, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Bỗng nghe tiếng “phì, phì” như tiếng rắn hổ mang phun ở ngay trên đầu, tôi choàng tỉnh giấc, he hé mắt nhìn.
Trong ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy bóng hai người đàn ông chụm đầu vào nhau. Tiếng Mường lầm rầm như từ cõi âm ty vọng đến. Căng mắt nhìn, tôi nhận ra ông Nhẽo và một người đàn ông lạ mặt. Anh kia đến xin nèm. Tiễn khách ra cửa, ông Nhẽo trở vào.
Tần ngần một lát, ông cúi xuống thu gọn túi xách, giấy bút, máy ảnh, máy ghi âm... tôi vứt tanh bành lúc tối. Cả bộ quần áo ướt sũng mồ hôi và nước suối tôi lội hồi chiều. Tay vuốt vuốt vào ống quần tôi, ông khẽ khàng treo lên mắc.
Tôi nằm im, nín thở. Một ý nghĩ kinh hoàng chợt đến: ông Nhẽo đang nèm tôi. Thì vừa nãy, ông chẳng khoe có những 10 vợ, 18 người con, gần 40 đứa cháu là gì? Lại khen tôi đẹp giai, đức độ, ăn nói có duyên...
Cớ gì ông không nèm tôi cho một cô cháu gái nào đó? Tóc tôi dựng ngược. Tim tôi nghẹn lại. Mắt tôi thao láo. Sáng hôm sau, ngồi bỏm bẻm nhai bánh rán, uống nước chè tươi với ông, tôi mới bật cười. Đúng là “thần hồn nát thần tính”.
Trên đường trở lại thị trấn Thanh Sơn, tôi rẽ vào Tân Phú thăm anh Hoàng Bá Tân để hỏi về phép thuật nèm chữa bệnh mà anh đã đi báo cáo ở Hội nghị y học dân tộc tỉnh Phú Thọ. Rất tiếc, anh Tân đi vắng.
Song bù lại, tôi lại được tiếp kiến ông cụ thân sinh ra anh, ông Hoàng Bá Huân, nổi tiếng về làm nèm. Ông Huân năm nay bước sang tuổi 76 nhưng còn tráng kiện, sung sức lắm. Vợ ông ít hơn vài ba tuổi, trông dáng người, nước da, chắc xưa cũng phải là cô gái Mường xinh đẹp.
Tôi hỏi ông Huân: “Bác gái đẹp thế, ngày xưa, bác có phải dùng nèm mới lấy được không?”. Ông Huân cười xua tay: “Không! Làng Mường có nhiều người biết nèm thì khó dùng trò ma ấy. Lộ chuyện ra sẽ bị nhà cô gái đánh cho vỡ mặt”.
|
Thầy Nhẽo và người vợ thứ 10 thuở còn mặn nồng. |
Bà Huân xởi lởi: “Tôi thích ông ấy thì lấy làm chồng thôi chứ chẳng phải ai chài nèm gì đâu”. Rồi bà kể chuyện hồi trước, nhiều đoàn công nhân đến ở đây bị người Mường nèm trêu nấu cơm không chín, nấu nước không sôi. Mọi bài nèm đều đọc bằng tiếng Mường. Riêng bài nèm này lại nói bằng tiếng Kinh.
Nguyên văn như sau: “Mày làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày không lên hơi. Mày lên hơi thì tao chém. Úm ta ha khất”. Muốn cho cơm chín thì niệm thần chú: “Mày làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày lên hơi. Mày không lên hơi thì tao chém. Úm ta ha khất”.
Bà Huân giảng giải: “Người ta nín hơi đọc thần chú rồi phì hơi ra mảnh đóm, vờ vào bếp xin lửa nhưng khua khoắng mảnh đóm quanh nồi và dưới chôn nồi. Lửa dẫu có đốt đùng đùng cơm cũng chẳng chín được”.
Tôi ngỏ ý muốn xem ông bà biểu diễn. Ông Huân cười: “Thôi, để hôm nào bác biểu diễn cho anh xem bài nèm ráo ướt. Khi ở trên bờ niệm thần chú thì người chống bè, bơi thuyền chốc chốc lại ngã ùm xuống sông, làm cho quần áo vừa ráo lại ướt ngay”.
Rồi ông hào hứng kể chuyện làm nèm để bó lại một số cặp vợ chồng khỏi bị tan vỡ. Ông kể chi tiết chuyện anh Khê ở Tân Phú đã có với vợ những 4 mặt con. Tí tởn thế nào lại cưới thêm cô vợ lẽ, suốt ngày òm ọp đánh chửi vợ con.
Cụ Bằng ở xóm thấy thế đến nhờ ông Huân “bó” lại cho gia đình họ đoàn tụ. Hẹn một ngày anh em nhà ấy ăn uống họp gia đình để lựa lời khuyên nhủ, chị dâu anh Khê kín đáo giấu 3 đôi đũa của vợ cả, vợ hai và của anh Khê vừa ăn xong không rửa đưa cho ông đem về bó nèm.
Ông còn kể chuyện bó nèm cho vợ chồng anh Dũng ở xóm Mịn. Nghe xong, tôi hỏi: “Cháu sẽ viết báo nêu tên thật của họ, liệu có bị kiện không?”.
Ông Huân cười xoà: “Cả làng biết đấy, kiện gì. Hơn nữa, bác làm phúc đức cho gia đình họ. Bây giờ trong ấm ngoài êm, hiểu ra, họ chỉ biết ơn bác thôi”.
Bà Huân vội nói chen vào, giọng lo lắng: “À! Suýt nữa thì quên. Hôm trước đến đám ma nhà anh Thọ. Bà Xuân gọi tôi ra nói nhỏ là về nhờ ông, nếu “nèm tơm thăm” hay “nèm bó đũa” thì làm ơn cởi giúp kẻo một người chết thì cả nhà chết theo”.
Ông Huân bảo: “Không sao. Nhà bà Xuân, mẹ anh Huy ở xóm Quyết Tiến, tôi nèm bằng muối không sợ nguy hiểm như bó đũa, tơm thăm nên không phải cởi”.
Nói đoạn, ông liền bảo Thuỷ, cậu con út vào buồng mở hòm lấy ra bó đũa cho tôi xem. Đây là 2 đôi của vợ chồng anh Dũng nhờ ông nèm hồi năm ngoái. Bốn cái đũa được bó bằng hai mối buộc chỉ đỏ và chỉ trắng.
Ông Huân giải thích: “Muốn nèm bó đũa phải dùng hai loại chỉ khác màu bó chặt đôi đũa ăn cơm của những người đang “ông chẳng bà chuộc”. Bó đũa ấy phải đem về nhà mình cất kỹ. Sau 3 năm khi vợ chồng đã khăng khít, phải đem bó đũa đó ra niệm thần chú bài “ké nèm” (giải) rồi tháo chỉ cho đũa rời ra.
Có như thế thì một người chết, người kia sẽ không hề hấn gì”. Còn “nèm tơm thăm” là lấy được mảnh áo hoặc quần của 2 người đã mặc, niệm thần chú vào rồi cất kỹ. Đây là cách nèm khá bền chặt nhưng cũng khá nguy hiểm.
Lời bài chú rất dài, người khoẻ, đọc một hơi mới hết. Khi vợ chồng đã gắn bó, để tránh nguy hiểm, phải nèm cởi ra. Đọc lời chú bài ké nèm, hà hơi vào 2 mảnh vải, đem ra sông, suối, chỗ nước quẩn, rồi thả một mảnh ở dòng nước chảy xuôi, một mảnh ở dòng nước chảy ngược. Hai mảnh vải cuốn đi hai nơi sẽ không còn nguy hiểm cho người bị nèm.
Cần sự lý giải về một hiện tượng tâm linh của văn hoá Mường
Trở lại với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đã có hàng chục công trình nghiên cứu về văn hoá Mường Thanh Sơn. Trao đổi với chúng tôi tại tư thất ở Khu tập thể Di Lâu, thành phố Việt Trì về vấn đề: có hay không sự linh nghiệm của phép thuật nèm chài, nhà văn khẳng định: “Chài nèm là có thật”.
Theo “Cổ sử Việt Nam” của Đào Duy Anh thì Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều phép thuật, quyền năng, phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương. Xứ Mường Thanh Sơn, đất bản bộ của Vua Hùng còn in đậm phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng, chế độ thổ tù lang đạo, ruộng đất nhà lang..., đặc biệt, những truyền thuyết dân gian về vua Hùng, về Thánh Tản Viên còn rất nhiều.
Pháp thuật thần bí của người Lạc Việt mà sử sách thời Trang Vương bên Tàu gọi là phương thuật hay Việt phương nay còn sót lại ở xứ Mường chính là nèm chài, bùa mê ngải lú... Cách đây bốn năm, trong hội nghị giữa nhóm các nhà khoa học của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia với Sở văn hoá Phú Thọ bàn về vấn đề “nghiên cứu văn hoá Mường Phú Thọ”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã tha thiết đề nghị cần nghiên cứu sớm phương thuật của người Mường để làm sáng tỏ bức màn tâm linh kỳ bí này song rất tiếc, cho đến nay, vẫn chưa ai đoái hoài tới.
Riêng tôi, lặn ngụp mấy ngày ở xứ Mường Thanh Sơn để viết phóng sự này, không có ý tuyên truyền về những điều nhảm nhí, mê tín dị đoan... mà đơn giản chỉ là kể một cách trung thực những điều mắt thấy tai nghe đang lưu truyền trong dân gian để các nhà khoa học và bạn đọc tham khảo. Chuyện thuật nèm chài linh nghiệm đến đâu, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đối chứng, tìm hiểu trong thực tế.
Theo Hoàng Anh Sướng/Tuổi trẻ & Đời sống