Tham vấn ý kiến các nhà khoa học về Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Google News

Ngày 27/9, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) Phan Xuân Dũng và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy đồng chủ trì hội thảo.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phan Xuân Dũng cho biết, nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với con người hay bất kỳ sinh vật nào sống trên trái đất. Không có nước sẽ không có sự sống. Cũng chính vì thế mà Việt Nam đặc biệt quan tâm về vấn đề nước và tài nguyên nước, không chỉ bằng chủ trương mà bằng cả hệ thống chính sách, pháp luật Nhà nước như: Luật Tài nguyên nước năm 1998, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Tham van y kien cac nha khoa hoc ve Du thao Luat Tai nguyen nuoc (sua doi)
Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phan Xuân Dũng phát biểu khai mạc 
Trình bày tóm tắt Dự thảo Luật Tài nguyên nước, ông Châu Trần Vĩnh – Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012. Qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, một số quy định của Luật 2012 còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực. Đồng thời, thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn đề bổ sung nhân tạo nước dưới đất; vấn đề giảm thiểu ngập lụt đô thị, định giá đầy đủ giá trị của tài nguyên nước; một số điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; chưa có cơ chế, chính sách minh bạch, rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nguồn lực xã hội của các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương; một số nội dung phát sinh mới trong thực tiễn nhưng pháp luật chưa có quy định điều chỉnh.
Tham van y kien cac nha khoa hoc ve Du thao Luat Tai nguyen nuoc (sua doi)-Hinh-2
 Ông Châu Trần Vĩnh – Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước trình bày tóm tắt dự thảo Luật Tài nguyên nước
Bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở một số nơi còn chưa nghiêm, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm chưa được thực hiện tốt; các cơ chế tài chính, chế tài, công cụ kiểm soát, giám sát chưa hiệu quả; các cơ chế hợp tác, giải quyết các vấn đề nước xuyên biên giới còn chưa đồng bộ; một số nội dung của pháp luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ với Luật Tài nguyên nước,…
Về quá trình xây dựng Luật, ông Vĩnh cũng cho biết, thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trên cơ sở tổng kết thực hiện Luật Tài nguyên nước năm 2012; Rà soát, đánh giá 48 bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến tài nguyên nước; Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế liên quan. Bên cạnh đó, Dự thảo đã được gửi lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.
Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hạn chế mức thấp nhất sự giao thoa, chồng chéo, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng dự thảo Luật theo hướng quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra đã được quy định tại các Luật khác. Theo đó, dự thảo Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính... theo đúng chức năng nhiệm vụ đã được giao tại các luật có liên quan đến tài nguyên nước để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất.
Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) có kết cấu 10 chương, 87 điều. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 19 điều; sửa đổi, bổ sung 55 điều; bổ sung mới 13 điều và bãi bỏ 5 điều). Đối chiếu với Dự thảo Luật tháng 3-2023, Dự thảo Luật tháng 9-2023 đã tiếp thu, bổ sung nhiều kiến góp ý của các cơ quan, hội ngành, các chuyên gia, nhà khoa học và nhân dân vào dự thảo Luật.
Theo GS.TS Đào Xuân Học – Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, lý thuyết khoa học và thực tiễn đã cho thấy không thể tách rời quản lý tài nguyên nước với quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước và phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay. Theo GS.TS Đào Xuân Học, nên quy về một mối công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước và phòng tránh giảm nhẹ thiên tai.
Tham van y kien cac nha khoa hoc ve Du thao Luat Tai nguyen nuoc (sua doi)-Hinh-3
GS.TS Đào Xuân Học – Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam 
Góp ý Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), TS Hoàng Văn Khoa - Phó chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam cho rằng, về phạm vi điều chỉnh tại điều 1, dự thảo Luật đã đề xuất không đưa “nước dưới đất” không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tài nguyên nước. Tuy nhiên, theo khái niệm “nước dưới đất” vẫn là tài nguyên nước, do đó cần xem xét giữ lại ở Luật này.
TS Hoàng Văn Khoa đề nghị xem xét việc chồng lấn về quản lý giữa Luật Tài nguyên nước với Luật Thủy lợi, Luật Khí tượng thủy văn. Đặc biệt “nước mưa”, “nước mặt”, cũng là đối tượng quản lý của các luật khác.
Tham van y kien cac nha khoa hoc ve Du thao Luat Tai nguyen nuoc (sua doi)-Hinh-4
TS Hoàng Văn Khoa - Phó Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam 
Về các loại quy hoạch tài nguyên nước, cần sắp xếp các quy định về quy hoạch theo thứ tự quy hoạch tài nguyên nước và sau đó là các quy hoạch có tính kỹ thuật, chuyên ngành. Trong mỗi loại quy hoạch cần thể hiện các nội dung: Nguyên tắc, căn cứ, nội dung quy hoạch, thời hạn, thẩm quyền phê duyệt.
Còn đối với ý kiến của PGS.TS Lưu Đức Hải – Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam cho rằng, tại Khoản 8 Điều 2 ghi: ‘Lưu vực sông là vùng đất mà trong phạm vi đó nước mặt, nước dưới đất chảy tự nhiên vào sông và thoát ra một cửa chung hoặc thoát ra biển’. Định nghĩa này chưa chính xác vì nếu nước mặt trong lưu vực sông có thể chảy theo địa hình thì nước dưới đất/nước ngầm chỉ lưu thông trong tầng chứa nước (cát, cuội, sỏi) nhưng tầng chứa nước có thể không theo địa hình, có thể hướng dốc tầng chứa nước còn ngược với địa hình. Vì vậy, nước mặt và nước ngầm có thể không chảy tự nhiên vào một chỗ. Do vậy, theo tôi nên cân nhắc bỏ cụm từ ‘nước dưới đất’ ra khỏi định nghĩa này hay thêm cụm từ ‘đa số’ trước cụm từ ‘nước dưới đất’.
Tham van y kien cac nha khoa hoc ve Du thao Luat Tai nguyen nuoc (sua doi)-Hinh-5
PGS.TS Lưu Đức Hải – Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam 
Tại hội thảo, các đại biểu đã trao đổi và đưa ra nhiều ý kiến như: tại Điều 23 quy định về hành lang bảo vệ nguồn nước, các nội dung quy định trong điều này là đúng nhưng trong thực tế là khó thực hiện được, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế hầu hết các tuyến kênh lớn và vừa của vùng này đã bị dân lấn chiếm làm nhà ở, làm thu hẹp dòng chảy và xả rác sinh hoạt làm ô nhiểm sông nhưng không thể đưa ra hình phạt.
Cũng như mục I đã nêu, điều kiện tự nhiên tác động lớn đến nguồn nước. Điều 25 quy định bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy mà chỉ đề cập đến các công trình xây dựng mà không đề cập đến nhà ở của dân lấn chiếm bờ kênh là không thực tế.
Trong điều kiện thực tế hiện nay ở vùng Đồng bằng sông Cửu long, kênh rạch vừa là dùng cho nước sản xuất, vừa dùng cho nước sinh hoạt nhiều nơi còn làm nhà vệ sinh ngay trên nguồn nước này do vậy quy định như điều 26 là không khả thi.
Cần xem xét các quy định về dòng chảy tối thiểu. Không phải hồ chứa nào đều phải có dòng chảy tối thiểu. Tất cả các hồ vừa và nhỏ đều làm trên suối nhỏ mùa cạn thì suối không có nước, hồ chỉ trữ nước về mùa mưa (thực tế ở Việt nam có khoảng 6000/7000 hồ thủy lợi là các hồ nhỏ).
Trong dự thảo luật Tài nguyên nước (sửa đổi) chưa đề cập đến vài trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quản lý lưu vực sông. Theo một số đại biểu, nếu có tổ chức quản lý lưu vực sông mạnh thì quản lý tài nguyên nước sẽ có hiệu quả hơn nhiều.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy cho biết, để phục vụ việc thẩm tra, Thường trực Ủy ban KH, CN&MT đã tổ chức các đợt khảo sát thực tế, hội thảo, tọa đàm tham vấn chuyên gia, nhà khoa học; lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về nội dung dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Qua tổng hợp các ý kiến góp ý cho thấy, việc sửa đổi Luật tài nguyên nước là cần thiết, giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên nước và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.
Nội dung dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã thể chế hóa tương đối đầy đủ quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước về quản lý tài nguyên nước, đặc biệt là Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng chống ô nhiễm nước và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt; đổi mới và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý tài nguyên nước; khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước theo hướng quản trị nước, đẩy mạnh xã hội hoá ngành nước và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên nước.
Về tính khả thi của dự án Luật, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy cho biết, dự án Luật đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa Luật tài nguyên nước 2012, tổng kết thi hành Luật Tài nguyên nước và rà soát, đối chiếu với các luật có liên quan. Do đó, về cơ bản các quy định của Luật đảm bảo tính khả thi.
Phát biểu kết luận hội thảo, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phan Xuân Dũng đánh giá cao những ý kiến đóng góp của các đại biểu đối với việc hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); đồng thời Liên hiệp Hội Việt Nam sẽ tổng hợp ý kiến để để trình Quốc hội xem xét.
Tham van y kien cac nha khoa hoc ve Du thao Luat Tai nguyen nuoc (sua doi)-Hinh-6
Toàn cảnh hội thảo. 
Theo HT/VUSTA